THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt ( Bài cuối)

Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt ( Bài cuối)

VTVTC: Phóng sự ngắn là thể loại mũi nhọn được sử dụng phổ biến trong các chương trình Thời sự của các Đài truyền hình. Dù được sử dụng nhiều song nhiều phóng viên vẫn còn khá lúng túng vì thiếu những kiến thức, kỹ năng cần thiết để vận dụng thực hiện phóng sự ngắn. Xuất phát từ thực tiễn của ngành truyền hình, chúng tôi giới thiệu bài viết thứ tư, bài viết cuối trong loạt bài ” Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt” của nhà báo Văn Đồng – Trưởng Phòng Bạn nghe đài & xem truyền hình, Đài Phát thanh – Truyền hình Thái Nguyên.
Thao tác “ nâng tầm” phóng sự:
 Đây là thao tác quan trọng song ít được chia sẻ, lý do là không ít phóng viên giữ bí quyết nghề nghiệp riêng, ít muốn chia sẻ. Lý do nữa là không dễ để nâng tầm phóng sự nếu phóng viên không tạm rời xa chi tiết mà có cái nhìn rộng hơn, khái quát vấn đề mình phản ánh trong mối tương quan với lĩnh vực, với phạm vi địa lý ( tỉnh, cả nước), với tình hình thời sự trong nước và quốc tế dựa trên “ phông kiến thức” sẵn có của mình. Để sử dụng tốt thao tác này đòi hỏi lao động quá khứ của phóng viên, tức là lượng tri thức được tích lũy và sự nhạy bén nghề nghiệp.


Phóng viên Thanh Nga và Thành Trung Đài PT – TH Thái Nguyên ghi hình tại hiện trường
Việc phát hiện sợi dây liên hệ giữa cái cụ thể với cái tổng thể, cái của địa phương với tác dụng tuyên truyền toàn quốc, cái chi tiết trong lịch sử và sợi dây tác dụng trong hiện tại v.v. không phải tự nhiên có mà là kết quả của quá trình rèn luyện tư duy, sự nhạy bén trong tư duy. Giống như “ dao càng mài càng sắc”, phóng viên càng sử dụng tốt thao tác này sẽ trưởng thành, và trong nhiều trường hợp, tầm vóc nghề nghiệp của phóng viên hơn nhau cũng là ở chi tiết cuối cùng quan trọng này. Rất nhiều phóng viên trẻ nhanh nhạy, phát hiện nhiều đề tài hay nhưng thiếu kinh nghiệm trong thao tác này dẫn đến phóng sự chưa hấp dẫn, chưa hay, rất đáng tiếc.
 Nâng tầm ở đây không phải nhằm làm cho phóng sự quan trọng hóa, ngược lại đó là việc liên hệ giữa sự việc đơn lẻ mà phóng sự đề cập với bối cảnh, với tổng thể, là quan hệ giữa cái riêng và cái chung, qua đó, vấn đề phóng sự phản ánh không dừng lại ở một địa phương, lĩnh vực mà hướng đến trở thành mối quan tâm của số đông và đây cũng là thủ pháp làm cho phóng sự thực hiện đúng tính chất báo chí của mình. Thao tác này thường dùng ở phần kết của phóng sự ngắn.
Qua ví dụ sau đây sẽ sáng rõ hơn về thủ pháp mà trong chuyện “bếp núc” nghề nghiệp gọi là thao tác nâng tầm của phóng sự ngắn.
Phóng sự Chung cư liệu có an cư phản ánh sự xuống cấp của khu nhà dành cho công nhân.
Thao tác nâng tầm ở phần kết là : Trong 30 năm qua, những công nhân nơi này đã đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của một thị xã công nghiệp. Trong khi đó họ vẫn chưa thể an cư tại chính nơi ở của mình. Đây là dạng mâu thuẫn, là quan hệ giữa một khu nhà ở một địa phương với một vấn đề lớn hơn, chăm lo cho đời sống của chính những người công nhân đang đóng góp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nói cách khác phóng sự đặt ra vấn đề: Những công nhân đóng góp cho sự phát triển của xã hội nhưng chính họ lại chưa nhận được sự quan tâm.
Phóng sự Làng nhặng và nhà máy chết phản ánh dự án nhà máy xử lý chất thải trị giá 34 tỷ đồng được đầu tư nhưng không hiệu quả, nhà máy đóng cửa, máy móc han gỉ, rác thải không được xử lý gây ô nhiễm.
Thao tác nâng tầm ở phần kết là: Trong khi Chính phủ đang chỉ đạo quản lý chặt chẽ chi tiêu công, khi nền kinh tế đang bị tác động của suy thoái kinh tế thế giới, từng đồng vốn chi cho đầu tư phát triển đều đáng quý thì dự án với hàng chục tỷ đồng lãng phí này thực sự là bài học đắt giá về công tác quản lý đầu tư. Cách kết này là liên hệ giữa cái cá biệt với tổng thể, giữa sự việc đơn lẻ mà phóng sự đề cập với tình hình thời sự đang diễn ra ở thời điểm phản ánh. Cách kết như vậy mang lại giá trị thông tin cao, tính định hướng báo chí của tác phẩm và cũng thể hiện rõ nhãn quan báo chí của nhà báo.
Qua những ví dụ trên phần nào đã giải thích về một trong những thủ pháp nghề nghiệp mà các phóng viên sử dụng khi kết thúc tác phẩm phóng sự ngắn truyền hình, nói cách khác là việc nâng tầm của phóng sự ngắn.
 Viết lời giới thiệu cho phóng sự ngắn:
 Giống như một bài báo viết, lời giới thiệu, đoạn sa – po bài viết có tác dụng quan trọng, nó giống như việc quảng bá, mời gọi sự chú ý vào tác phẩm. Lời giới thiệu hay lời dẫn của Biên tập viên, phát thanh viên trước khi phát một phóng sự ngắn rất quan trọng. Một phóng sự được làm cẩn thận nhưng lời dẫn sơ sài, kém hấp dẫn sẽ không phát huy giá trị tác phẩm. Lời giới thiệu có thể là chỉ giới thiệu đầu hoặc có cả giới thiệu mở đầu và lời dẫn khi kết thúc phóng sự.
 Lời dẫn cần phản ánh khái quát nhất bối cảnh tình hình và những chi tiết quan trọng mà phóng sự đề cập, dẫn dắt người xem đến với phóng sự sắp phát sóng. Lời dẫn không nên quá dài, chỉ nên ngắn gọn và đủ ý. Thông thường lời dẫn do phóng viên viết phóng sự dự thảo còn lời dẫn khi phát sóng trong chương trình thời sự do biên tập viên chỉnh lý, hoàn thiện trong tương quan chương trình Thời sự, với nhãn quan của biên tập viên sao cho hay nhất.
 Cũng cần tránh những lời dẫn chung chung, lối mòn. Tốt nhất, mỗi phóng sự nên cố gắng tìm cho mình một lời dẫn riêng, từ những cái riêng như thế sẽ làm cho tổng thể chương trình Thời sự đa dạng, phong phú, mặt khác làm cho phóng sự có bản sắc riêng, không nhạt nhòa trong cái chung mà có dấu ấn riêng có.
 Rà soát và tự duyệt lần cuối tác phẩm:
 Sau khi dựng hình phóng sự ngắn xong đây là thao tác bắt buộc và quan trọng. Trong khi viết, khi đọc, khi dựng rất có thể phóng viên sẽ mải sa vào chi tiết thú vị hoặc tâm đắc nào đó mà quên chú ý đến âm thanh, lời bình, sắp xếp hình ảnh chưa hợp lý. Đây là điều thường gặp. Vì thế, khi đã dựng xong phóng sự, phóng viên nên dành ít phút xem lại chỉnh thể tác phẩm với tư cách tác giả và tư cách khán giả. Khi xem lại cần chú ý lời bình, âm thanh, các kỹ sảo hình ảnh đã hợp lý chưa? Đánh chữ họ tên, số liệu, cắt phỏng vấn có sai sót không? Tiết tấu hình dựng phù hợp với đặc trưng loại phóng sự ngắn chưa? Ví dụ: Phóng sự phản ánh thiên tai, hỏa hoạn, sự cố mới xảy ra có tiết tấu hình nhìn chung là nhanh, hình ảnh 3 giây / hình, đối với phóng viên phương Tây đôi khi hình ảnh này ngắn hơn, dưới 3 giây / hình và các videoclips, phóng sự thường có tiết tấu khá nhanh, đối với phóng sự về đề tài nhân đạo, lịch sử, văn hóa lại cần tiết tấu hình chậm hơn, có thể 4 giây / hình.
 Việc rà soát lần cuối phóng sự ngắn cho phép phát hiện những sai sót và xử lý kịp thời. Đây là lúc cần sự tĩnh tâm, bình tĩnh và tỉnh táo nhất để vừa nghe, vừa xem, vừa cân nhắc về bố cục, hình ảnh, âm thanh. Do đó, đây là thời điểm làm việc tập trung cao độ trước khi hoàn tất tác phẩm phóng sự ngắn.
 Làm thế nào để rèn luyện kỹ năng làm phóng sự ngắn truyền hình:
 Bất cứ phóng viên nào cũng mong muốn mình trở thành phóng viên giỏi, thực hiện nhiều phóng sự hay, hấp dẫn. Đó là mong muốn hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, để thực hiện lại không hề đơn giản, đòi hỏi ý chí và sự kiên trì rèn luyện. Chỉ có số ít phóng viên có sự mẫn cảm đặc biệt, nhạy bén đặc biệt có thể tiến triển nhanh còn đa số đều phải lao động một cách nghiêm túc, trải nghiệm và tự rút kinh nghiệm mới có thành công.
 Sau đây có thể là một vài bí quyết tham khảo từ những phóng viên phương Tây và cả những phóng viên trong nước có nhiều kinh nghiệm với thể loại phóng sự ngắn truyền hình.
Thường xuyên xem TV
 Việc xem TV thường xuyên, đặc biệt là chương trình Thời sự trong nước và quốc tế là cách tự học nghiêm túc, dễ thực hiện, nhất là khi có đa dạng các kênh truyền hình như hiện nay. Tuy nhiên, sẽ là lãng phí thời gian nếu như bạn xem TV với tư cách một khán giả.
 Trái lại cần xem TV, xem các chương trình Thời sự với tư cách một đồng nghiệp, xem cách chọn đề tài, cách dẫn hiện trường, xem kết cấu phóng sự, lời bình phóng sự, cách khai thác chi tiết trong phóng sự, cách triển khai câu chuyện, cách phỏng vấn, cách kết thúc phóng sự… Tóm lại, là cần xem và tự phân tích, rút tỉa kinh nghiệm cho mình.

Phỏng vấn tại hiện trường của Phóng viên Ngọc Linh và Thành Trung

Tự chấm điểm:
           Nên có một cuốn sổ tay nhỏ, tự lập bảng chấm điểm cho các phóng sự của mình khi phát sóng trên TV. Có bốn thang điểm: Đề tài, hình ảnh, âm thanh, kết cấu phóng sự với mỗi loại 5 điểm, tổng điểm tối đa cả bốn tiêu chí là 20 điểm. Điều này khiến bạn giống như giám khảo khi chấm tác phẩm truyền hình. Tự chấm điểm cho mình, rồi rút kinh nghiệm và liên tục theo dõi diễn tiến của của bảng điểm theo thời gian. Sự nghiêm túc này có ý nghĩa luôn nhắc nhở bạn phải cố gắng và rèn luyện từng nội dung của bảng chấm điểm trong thực tế nghề nghiệp.
Tên Phóng sự
Đề tài  /
5 điểm
Hình ảnh/
 5 điểm
Âm thanh/
5 điểm
Kết cấu/
5 điểm
Tổng cộng
PS…





PS…





Bảng điểm theo dõi quá trình thực hiện các phóng sự ngắn trong tháng
Nghiên cứu tài liệu, trao đổi kinh nghiệm:
Với sự trợ giúp của internet bạn dễ dàng có thể truy cập vào phần hướng dẫn nghiệp vụ của các hãng tin lớn như Reuters, CNN, hay Trung tâm đào tạo của Đài Truyền hình Việt Nam VTV. Đây là nguồn tài liệu phong phú. Ngoài ra, tủ sách báo chí của Nhà xuất bản Thông tấn với hàng loạt Sách về báo chí phương Tây là nguồn tài liệu tin cậy. Bên cạnh đó, việc trao đổi kinh nghiệm, học hỏi từ các đồng nghiệp cũng là cách tốt để nâng cao kỹ năng làm phóng sự ngắn truyền hình.

Dựng và hoàn thiện phóng sự – công đoạn cuối để có phóng sự ngắn tốt
Để thực hiện một tác phẩm báo chí nói chung, một tác phẩm phóng sự ngắn truyền hình nói riêng với sự dồn nén thông tin cao trong phạm vi thời lượng có hạn, dưới ba phút đòi hỏi nhiều kỹ năng nghề nghiệp. Những chia sẻ nêu trên hy vọng phần nào giúp các phóng viên trẻ tham khảo và tháo gỡ những băn khoăn khi tác nghiệp đối với một thể loại tưởng như dễ vì quá phổ biến song lại cũng rất khó là phóng sự ngắn truyền hình./.

Văn Đồng
Đài PT – TH Thái Nguyên

Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt ( Bài 3)

Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt ( Bài 3)

VTVTC: Phóng sự ngắn là thể loại mũi nhọn được sử dụng phổ biến trong các chương trình Thời sự của các Đài truyền hình. Dù được sử dụng nhiều song nhiều phóng viên vẫn còn khá lúng túng vì thiếu những kiến thức, kỹ năng cần thiết để vận dụng thực hiện phóng sự ngắn. Xuất phát từ thực tiễn của ngành truyền hình, chúng tôi giới thiệu bài viết thứ ba ” Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt” của nhà báo Văn Đồng – Trưởng Phòng Bạn nghe đài & xem truyền hình, Đài Phát thanh – Truyền hình Thái Nguyên.
 Sắp xếp hình ảnh để kể câu chuyện:
Dựng hình ( montage ) là quá trình sáng tạo tác phẩm trong giai đoạn hậu kỳ và cũng là giai đoạn quan trọng, quyết định phóng sự tốt hay không. Việc sắp xếp hình ảnh để kể một câu chuyện  hay nói cách khác là nghệ thuật dựng hình muốn hiệu quả rõ ràng là không phải cứ đi quay về ngồi vào bàn dựng mới được chú ý. Trái lại, cần những hình ảnh gì để kể câu chuyện phóng sự phải được quan tâm từ khi phóng viên đi thực hiện phóng sự, thậm chí có sự chuẩn bị trước cả khi ra hiện trường thực hiện phóng sự. Khi đã có tư duy hình ảnh tốt, có ý thức về việc sử dụng hình ảnh và nắm vững nghệ thuật dựng hình thì việc dựng hình phóng sự ngắn ở khâu hậu kỳ là điều không quá phức tạp.
 Điều đáng quan tâm là hiện nay nhiều phóng viên biên tập, tức là phóng viên viết phóng sự ngắn, là những người trực tiếp dựng hình phóng sự ngắn lại ít nắm vững những kỹ xảo bàn dựng, những thủ pháp dựng hình cơ bản: dựng song hành, dựng ẩn dụ… dẫn đến từ khi viết lời bình chưa quan tâm đến khai thác tối đa khả năng dựng hình mang lại hiệu quả cho phóng sự. Điều này dẫn đến nhiều phóng sự viết chung chung, lãng phí ngay khi có thể sử dụng tốt những biện pháp nghiệp vụ làm cho phóng sự của mình tốt hơn.
 Về nguyên tắc, việc dựng hình tuân thủ bố cục cận cảnh, trung cảnh, toàn cảnh và ngược lại. Song có thực tế là hiện nay nếu tính tỷ lệ các cỡ cảnh trong một phóng sự thì tỷ lệ cảnh cận luôn là ít nhất. Lý do là nhiều phóng viên quay phim còn thiếu ý thức khai thác chi tiết, xem phóng sự có quá nhiều cảnh toàn, cảnh trung, thiếu cảnh cận và đặc tả, trong khi quên mất rằng, cái làm nên sức hấp dẫn của phóng sự ngắn là các chi tiết.
 Việc sắp xếp các hình ảnh cũng là một nghệ thuật khi chỉ với 6 hình ảnh ta đã có nhiều cách sắp xếp khác nhau mang lại những thông điệp khác nhau, hiệu quả khác nhau. Do đó, bản thân trình tự xuất hiện các hình ảnh trong phóng sự ngắn phải là quá trình có chủ đích một cách cẩn thận của phóng viên khi dựng hình phóng sự ngắn.
 
Phóng viên Quý Anh ghi hình tại thác bản Giốc
Có những nguyên tắc, những kỹ thuật dựng hình kỹ thuật viên dựng hình có thể giúp cho bạn song có một điều chắc chắn là nếu muốn dựng hình tốt cho phóng sự ngắn, phóng viên không nhất thiết phải là nhà chuyên gia về máy móc song cần biết những kỹ thuật cơ bản về dựng hình để áp dụng ngay từ khi đi làm phóng sự ngắn, chi phối trong quá trình thiết kế kết cấu phóng sự, viết lời bình cho phóng sự bởi đến khi ngồi vào bàn dựng thì coi như “ sự đã rồi”, khi ấy sẽ chỉ sáng tạo được với những gì có trong tay là quỹ hình ảnh đã quay được mà thôi.
 Âm thanh trong phóng sự ngắn:
Âm thanh trong phóng sự ngắn gồm tiếng động nền của hình ảnh, lời phỏng vấn, giọng đọc lời bình, những âm thanh khác dùng trong phóng sự. Có một thực tế khá phổ biến là khi phóng viên quá chú trọng đến hình ảnh hay ít để ý tiếng động nền của hình ảnh. Nếu biết sử dụng hợp lý âm thanh nền của hình ảnh sẽ mang lại hiệu quả sống động cho phóng sự. VD: tiếng sóng biển, tiếng sôi động chợ phiên, tiếng nước lũ, tiếng công trường… thậm chí là âm thanh của sự im lặng.
Những người quay phim vẫn được kể một câu chuyện về một nhà quay phim người Pháp khi quay phim ở Việt Nam xong đã phải cất công sang quay lại một đoạn âm thanh của sự im lặng. Đơn giản là không gian yên tĩnh ở nghĩa trang của Việt Nam với tiếng côn trùng kêu khác hẳn với âm thanh, tiếng côn trùng kêu trong sự yên tĩnh của nghĩa trang ở Pháp. Thế mới biết sự coi trọng âm thanh trong tác nghiệp nghiêm túc như thế nào. Đối với các kíp phóng viên nước ngoài tác nghiệp, luôn có người phụ trách micro thu âm thanh riêng. Bằng việc nghe được âm thanh nơi xảy ra sự kiện, phóng sự đưa người xem “ nhập cuộc”, họ được cảm thấy tiến gần sự kiện hơn.
Giọng đọc của phóng sự ngắn cũng là thực tế đáng bàn hiện nay khi phần lớn phóng sự ngắn do các phát thanh viên đọc. Rõ ràng là các phát thanh viên thể hiện rất tốt khi đọc tin tức song khi đọc phóng sự ngắn, đặc biệt là những phóng sự viết đúng quy cách phóng sự ngắn truyền hình thì thường gặp khó khăn do không hiểu hết ý đồ diễn tả của tác giả, vậy nên, lý tưởng nhất là chính phóng viên, biên tập viên tự đọc với điều kiện giọng đảm bảo tương đối, không nói ngọng hay bị tật về đọc.
  Nhân vật trong phóng sự ngắn:
Đối với phim tài liệu cần nhân vật là đương nhiên. Vậy đối với phóng sự ngắn có cần nhân vật không? Câu trả lời là có. Nhân vật chính là người dẫn dắt câu chuyện trong phóng sự. Một phóng sự hấp dẫn là khi có nhân vật, có người thật tham gia trong sự kiện. Hình ảnh nhân vật luôn xuất hiện đầu, giữa và cuối tác phẩm. Khi phát hiện ra một đề tài phóng sự người phóng viên cũng cần lựa chọn tìm nhân vật trong phóng sự của mình là ai? Đây sẽ là điểm quan trọng để khởi đầu và kết thúc phóng sự, để phóng viên kể câu chuyện mình định kể với khán giả. Việc thỉnh thoảng cho nhân vật xuất hiện trong các trường đoạn để tránh hiện tượng phóng sự “ quên” mất nhân vật hoặc khán giả “ quên” mất nhân vật.
Vậy tiêu chí nào để lựa chọn nhân vật cho một phóng sự ngắn? Trước hết nhân vật ấy phải là người biết hoặc nhân chứng sự việc, là người liên quan đến chi tiết  hay được nêu trong phóng sự. Việc có nhân vật sẽ mang lại cho phóng sự sợi dây xuyên suốt, kết nối chỉnh thể, tránh việc phóng sự trở thành những khối rời rạc được lắp ghép lại. Có nhân vật cũng làm cho phóng sự hấp dẫn hơn, chân thực hơn.
 
 Phóng viên Thu Thủy và quay phim Quý Anh – Đài PT _ TH Thái Nguyên tác nghiệp tại Cao Bằng
Thế nào là cái kết ấn tượng?
Sau khó khăn đầu tiên là tìm đường dẫn vào câu chuyện, tức là cách mở đầu phóng sự thì cách kết thúc phóng sự cũng khó khăn không kém. Khó khăn ở đây là kết thúc như thế nào để phóng sự đọng lại trong tâm trí khán giả?
Thông thường có cách kết thúc mở và đóng. Cách kết thúc mở vẫn thường được ưa dùng hơn. Kết thúc mở nghĩa là việc khép lại phóng sự không phải là chốt vấn đề đã xong mà mở ra hướng giải quyết, gợi ra sự suy ngẫm của người xem. Khi xem song một phóng sự mà sau đó người xem vẫn bâng khuâng nghĩ về nó ấy là khi phóng sự đó có chi tiết hay, thú vị hoặc xúc động, gây rung cảm cho người xem về thẩm mỹ và chắc chắn đó phải là phóng sự có cái kết tốt về mặt nghiệp vụ.
 Những nhà nghiên cứu về phóng sự truyền hình của phương Tây cho rằng phóng sự là nêu trung thực sự việc ( real), việc xem xét, đánh giá là tùy thuộc ở khán giả. Điều này đôi khi dẫn đến sự thiếu định hướng về cách thức truyền thông bởi cùng một phóng sự sẽ có nhiều quan điểm khác nhau. Do đó, cái kết phóng sự là nơi thể hiện dụng ý, định hướng của báo chí đối với khán giả.
 Vì vậy, để có cái kết ấn tượng thường dùng kết cấu vòng tròn để nhắc lại sự việc đã nêu ở phần mở đầu phóng sự song dưới dạng khác, nhấn mạnh vấn đề hơn. Nhấn mạnh có khi là một mệnh đề hoàn chỉnh, có khi là một vấn đề gợi mở. Những phóng viên sẽ không dành phần kết để nêu giải pháp, vì giải pháp là chuyện của các nhà quản lý, làm sao phóng viên nay đề cập đề tài này mai đề cập đề tài khác mà phóng sự nào cũng nêu giải pháp, cần thế nọ, cần thế kia? Rõ ràng phóng viên chỉ làm phận sự của mình là nêu vấn đề trước dư luận mà thôi. Những người làm phóng sự kinh nghiệm phương Tây cũng khuyên rằng không nên dùng cái kết dưới dạng câu hỏi như : phải chăng? Tại sao? Có lẽ? Điều này thể hiện sự mông lung của chính phóng viên. Những dạng câu như Thiết nghĩ cũng không được khuyên dùng.
 Sau đây là một vài dạng kết phóng sự ngắn gây hiệu quả mạnh:
- Phóng sự phản ánh về nạn khai thác quặng trái phép, phóng viên cầm hòn quặng trên tay và dẫn: Nếu như hòn quặng mà biết nói năng, chắc chắn nó sẽ chỉ rõ ai là thủ phạm làm thất thoát khoáng sản của nhà nước và nhân dân.
- Phóng sự Chung cư liệu có an cư với cái kết: Trong khi việc xử lý khu chung cư xuống cấp này chưa được giải quyết thì công việc thường ngày của những công nhân quản lý khu nhà vẫn là mang sào đi chọc những mảng bê tông sắp rơi trên trần nhà để tránh vữa rơi xuống dân cư phía dưới.
 - Phóng sự Những đứa trẻ vùng quặng với cái kết là bức tranh phản ánh nỗi nhọc nhằn của tuổi thơ vùng quặng.

Văn Đồng
Đài PH – TH Thái Nguyên

Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt ( Bài 2)

Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt ( Bài 2)

VTVTC: Phóng sự ngắn là thể loại mũi nhọn được sử dụng phổ biến trong các chương trình Thời sự của các Đài truyền hình. Dù được sử dụng nhiều song nhiều phóng viên vẫn còn khá lúng túng vì thiếu những kiến thức, kỹ năng cần thiết để vận dụng thực hiện phóng sự ngắn. Xuất phát từ thực tiễn của ngành truyền hình, chúng tôi giới thiệu bài viết thứ hai ” Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt” của nhà báo Văn Đồng – Trưởng Phòng Bạn nghe đài & xem truyền hình, Đài Phát thanh – Truyền hình Thái Nguyên.
Phỏng vấn trong phóng sự: Đây là điểm nhiều phóng viên trẻ còn khó khăn. Đôi khi người ta dễ nhầm lẫn việc phỏng vấn lấy thông tin và phỏng vấn để sử dụng trong phóng sự ngắn. Các sách báo chí đều hướng dẫn rằng phóng viên khi tác nghiệp nên sử dụng câu hỏi mở để khai thác thông tin. Điều này hoàn toàn đúng. Đối với truyền hình cũng vậy, khi làm phim tài liệu, khi phỏng vấn, tọa đàm tại trường quay cũng vậy. Song khi thực hiện phóng sự ngắn lại khác. Những phóng viên các kênh truyền hình tin tức lớn thường hỏi câu hỏi mở để khai thác thông tin làm phim hoặc ghi chép vào sổ tay. Điều gì sẽ xảy ra nếu cả phóng sự chỉ có 1’30’’ mà cần ba phỏng vấn và ít nhất một lời dẫn hiện trường trong khi người trả lời phỏng vấn nói dài? Rõ ràng là cần hỏi để người trả lời đi thẳng vào vấn đề chính.
             Điều quan trọng cũng được nhiều nhà báo phương Tây khuyên dùng là khi phỏng vấn trong quá trình thực hiện phóng sự ngắn hãy cố gắng phỏng vấn quan điểm của người được hỏi trước vấn đề mà phóng sự đề cập. Như ví dụ trong phóng sự về khu dân cư xuống cấp nêu trên, phóng viên sẽ thay vì hỏi người dân thấy khu dân cư của mình xuống cấp thế nào sẽ hỏi người dân anh thấy chất lượng cuộc sống ở đây tốt hay không? Hỏi như vậy phóng viên sẽ lấy được thông tin mà khán giả quan tâm là thái độ của người liên quan đối với vấn đề phóng sự đang đề cập và nhận được một câu trả lời ngắn, dễ cắt gọt khi dựng hình, tránh được câu trả lời dài.


Phóng viên Thanh Bình Đài Phát thanh – Truyền hình Thái nguyên dẫn tại hiện trường
                Một điều quan trọng được lưu ý là lời phỏng vấn của nhân vật càng ngắn càng tốt. Một ví dụ điển hình, khi có một vụ nổ bom ở Trung Đông, phóng viên hỏi một người dân, anh ta giơ hai tay lên trời và nói: Khủng khiếp quá! Ý kiến trích dẫn chỉ ngắn như vậy nhưng lại rất tuyệt vời khi chỉ ba chữ mà đã phản ánh rõ quan điểm của nhân vật trước vấn đề mà phóng sự đang phản ánh. Đây vẫn là ví dụ kinh điển về việc thu được lời trả lời phỏng vấn ngắn nhất và hay nhất trong phóng sự ngắn thời sự.
              Khi dựng hình, điều tối kỵ là không được cắt gọt ý kiến phỏng vấn, điều này sẽ mang lại cảm giác về sự thiếu chân thực. Việc dùng chớp trắng khi cắt ghép ý kiến phỏng vấn lại càng không thể bởi không có lý do gì lại có hiện tượng chụp ảnh khi phỏng vấn. Đây cũng là những điều nhiều phóng sự ngắn đang gặp phải hiện nay. Trong trường hợp hãn hữu, nếu ghép ý kiến thì cánh tốt nhất là hãy trám hình ảnh sự việc phóng sự đang phản ánh, nhằm che đậy việc ghép ý kiến.
           Nghĩ cách đặt câu hỏi đôi khi còn khó hơn là tìm câu trả lời. Câu hỏi thế nào sẽ có câu trả lời tương xứng, nói cách khác, khi xem một phóng sự, những người có kinh nghiệm chỉ cần nghe ý kiến phỏng vấn có thể đoán được phóng viên đã hỏi câu hỏi như thế nào? Đôi khi, đối với những đề tài khó,  đối với phỏng vấn những đối tượng khó bộc lộ quan điểm, cố gắng che giấu chính kiến của mình trước vấn đề phóng viên nêu thì dạng câu hỏi khiêu khích cũng được khuyên dùng.
              Tương tự, như ví dụ trên, khu dân cư xuống cấp do lỗi của chủ đầu tư xây nhà kém chất lượng, khi phóng viên phỏng vấn, chủ đầu tư cố tình lảng tránh trách nhiệm, một câu hỏi thông minh sẽ là: Người dân cho rằng doanh nghiệp đang lẩn tránh trách nhiệm về chất lượng công trình, ông nghĩ sao về ý kiến này? Đối với dạng câu hỏi khiêu khích thường người được phỏng vấn sẽ bị cảm xúc chi phối mạnh tới lý trí, dễ xúc động và thể hiện cái tôi, cái suy nghĩ thật của mình vốn đang bị lý trí cố gắng che đậy, từ đó phóng viên dễ đi tìm tới cái chân thực đang bị che lấp. Và để dùng tốt dạng câu hỏi này cũng đòi hỏi bản lĩnh của phóng viên.
              Bản thân việc sử dụng các phỏng vấn trong phóng sự ngắn, trình tự xuất hiện các nhân vật, các ý kiến cũng thể hiện quan điểm của chính tác giả khi thực hiện phóng sự. Trong tác nghiệp, thông thường theo quy luật có ba phỏng vấn được sử dụng trong phóng sự ngắn. Theo quy luật của trí nhớ, phỏng vấn thứ ba sẽ để lại dấu ấn sâu đậm nhất đối với người xem, do đó ý kiến người phỏng vấn cuối cùng bao giờ cũng có giá trị quan trọng nhất trong phóng sự. Do đó, đây là ý kiến phản ánh rõ nhất dụng ý của tác giả.

Phóng viên Văn Đồng và quay phim Triệu Thuần phỏng vấn tại Lũng Cú – Hà giang
            Tương tự, trong ba ý kiến phỏng vấn của phóng sự về khu dân cư xuống cấp, người thứ nhất nói sống ở đây rất khổ, người thứ hai nói nguyên nhân do công trình kém chất lượng, người thứ ba nói Doanh nghiệp xây dựng không phải trốn tránh trách nhiệm trước sự việc mà cần có đánh giá toàn diện để có giải pháp. Trong trường hợp này ý kiến thứ ba có vai trò quan trọng nhất vì nó sẽ đọng lại trong trí nhớ khán giả nhiều hơn cả. Nếu theo trình tự phỏng vấn trên ta sẽ có phóng sự: An cư nhưng vẫn bất an phản ánh sự việc chậm được giải quyết. Ngược lại, nếu sắp xếp theo hướng đổi phỏng vấn thứ nhất thay vị trí của phỏng vấn thứ ba, khi người dân phản ánh sống ở khu dân cư này rất khổ ở cuối phóng sự ta sẽ có phóng sự: Bất an ở khu chung cư phản ánh nỗi khổ của cư dân khu dân cư xuống cấp, chưa có sự quan tâm vào cuộc của cơ quan nào. Như vậy, có thể thấy việc sắp xếp trình tự xuất hiện các ý kiến phỏng vấn là thao tác có chủ đích của người thực hiện phóng sự, nói cách khác, đây là bàn tay nghề nghiệp của phóng viên ẩn phía sau phóng sự ngắn.
  Kết cấu phóng sự ngắn dạng vòng tròn:
Có nhiều dạng kết cấu để lựa chọn khi thực hiện một phóng sự ngắn truyền hình. Tuy nhiên, dạng kết cấu vòng tròn là loại được nhiều phóng viên truyền hình hay dùng bởi tính hiệu quả của nó. Thế nhưng, để nắm vững và sử dụng thủ pháp này khi kết cấu phóng sự ngắn lại thực sự đòi hỏi tay nghề cao của phóng viên, bởi nếu không thuần thục, sẽ phản tác dụng, làm giảm hiệu quả của phóng sự ngắn.
 Tương tự như ví dụ đã nêu, nếu phóng sự phản ánh sự xuống cấp của khu dân cư với hình ảnh mở đầu gây xúc động là cảnh một gia đình đang ăn cơm phía trên đầu họ là trần nhà nứt toác thì cảnh cuối của phóng sự phóng viên sẽ cố ý đưa người xem trở lại với hình ảnh đầu tiên, chi tiết đầu tiên này kèm theo câu kết mang tính hàm xúc cao như: Trong khi vấn đề chưa được giải quyết thì những người trong gia đình ông A, bà B vẫn hàng ngày sống trong sự thấp thỏm, ăn không ngon, ngủ không yên bởi ngôi nhà xuống cấp. Hay, Những khúc mắc trong quá trình lập dự án tái định cư là chuyện những  nhà quản lý đang phải bàn, còn những giây phút sum họp bình yên nhất của gia đình ông A, bà B vẫn
đang chênh vênh trước hiểm nguy đổ nhà bất cứ lúc nào!
Dạng kết cấu vòng tròn thực ra là việc láy lại trong tâm trí người xem về hình ảnh, chi tiết đã được chọn lọc kỹ, đề cập từ đầu phóng sự. Tác động láy như vậy khiến người xem nhớ lại vấn đề phóng sự đã phản ánh, mặt khác, nhấn mạnh có chủ ý của tác giả muốn gửi đến người xem một thông điệp sâu sắc qua phóng sự ngắn. Tuy nhiên, việc sắp đặt kết cấu vòng tròn cần có sự chọn lọc chi tiết đắt, có lời bình hợp lý. Cùng hình ảnh, hoặc cùng chi tiết giữa hình ảnh đầu phóng sự và cuối phóng sự song dứt khoát lời bình, chi tiết ở cuối phóng sự phải thể hiện sự khác biệt, phải mang “ sức nặng” của phóng sự, tránh chung chung, giảm hiệu quả của thủ pháp này khi sử dụng.
   Ngừng, nghỉ trong các trường đoạn ( Pause ):
              Thông thường người xem truyền hình sẽ tập trung cao độ ở lời dẫn của biên tập viên khi xem phần giới thiệu phóng sự và phần đầu phóng sự. Dần dần sự chú ý sẽ giảm dần, cộng với sự “ mệt mỏi ” của sự tập trung. Để duy trì sự chú ý của người xem rõ ràng là cần có những khoảng trống trong phóng sự để nghỉ thay vì người xem vừa phải xem, vừa phải nghe lời bình liên tục. Trong phóng sự ngắn nên có những trường đoạn “ nghỉ ”, tức là không có lời bình, khi ấy sẽ là những chi tiết đắt nhất, những hình ảnh xúc động và âm thanh phù hợp được nâng tiếng nền.
                Trong phóng sự ví dụ trên về khu dân cư xuống cấp có thể có những phân đoạn “ nghỉ ” khi người dân chọc những mảng vữa nứt trên trần đang nứt cho rơi xuống để tránh rơi vào người phía dưới, tăng âm thanh nền những khối vữa rơi và không có lời bình sẽ mang lại hiệu quả tác động mạnh về sự xuống cấp của khu dân cư đến người xem hơn là phóng viên ra sức mô tả sự xuống cấp bằng lời bình khi bản thân hình ảnh, âm thanh đã có sức mô tả quá tốt. Hoặc trôi hình kèm âm thanh nhân viên Ban quản lý khu nhà cầm loa đi  thông báo những vị trí nhà nguy hiểm cần tránh xa, trong
trường hợp này đoạn ngừng nghỉ này có hiệu quả cao trong phóng sự mà không cần thiết có bất cứ lời bình nào.
 Khai thác chi tiết để có một phóng sự hấp dẫn:
Trong phóng sự ngắn thời sự việc khai thác chi tiết có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Một phóng sự hay được làm nên bởi các chi tiết đắt, người xem cũng sẽ không thể nhớ hết cả phóng sự mà chỉ nhớ một vài chi tiết trong phóng sự, như vậy đã là phóng sự thành công. Thông thường trong một phóng sự có một vài chi tiết người phóng viên lựa chọn, sắp đặt theo thứ tự kịch tính tăng dần của các chi tiết. Chi tiết hay nhất, mâu thuẫn lớn nhất thường được sắp đặt ở phía sau. Cũng có trường hợp ngược lại, dạng viết tin theo hình tháp ngược, chi tiết hấp dẫn nhất được đề cập ngay từ đầu phóng sự ngắn. Song thông thường để tăng tính hấp dẫn của phóng sự thường các chi tiết sẽ xuất hiện từ hay ít, hay vừa đến hay, ấn tượng mạnh để thu hút sự chú ý của người xem. Sẽ khó thu hút người xem khi xem chi tiết hay nhất rồi đến chi tiết ít hay hơn trong phóng sự 3’, sẽ làm giảm hiệu quả của phóng sự.
 Nếu thực hiện một phóng sự dạng ít hấp dẫn nhất: Công tác chuẩn bị sản xuất vụ Xuân ở một địa phương, sẽ không thành công khi thiếu chi tiết, sẽ chỉ là số liệu chung chung, hình sản xuất chung chung. Nếu quan tâm đến chi tiết, người phóng viên sẽ phải đầu tư khai thác xem năm nay diện tích lúa lai đưa vào cấy tăng hay giảm, vì sao, tìm đến hộ gia đình năm trước chưa cấy lúa lai, năm nay bắt đầu cấy lúa lai và phỏng vấn lý do, quan tâm xem sản xuất vụ Xuân ở địa phương này có gì mới, khác với các địa phương khác. Chính chi tiết khác biệt, chi tiết về cái mới ấy làm nên sức sống của phóng sự.
 Tương tự, trong phóng sự Chung cư liệu có an cư phản ánh về khu chung cư xuống cấp ở một địa phương, nhiều chi tiết được sử dụng một cách có chủ đích. Chi tiết người dân mang theo cuộn giấy vệ sinh đi xe máy đi vệ sinh trở thành chi tiết đáng nhớ nhất của cả phóng sự khi khu chung cư xuống cấp, các nhà vệ sinh công cộng đều hư hỏng. Phóng sự về Thực trạng chất lượng các công trình thủy điện nhỏ là những chi tiết hàng loạt vụ vỡ đập, thiệt hại. Hệ thống bảng biểu thống kê và những hình ảnh tư liệu có sức mạnh rõ rệt trong phóng sự.
 Khi thực hiện một phóng sự về tình trạng hình thành điểm trông giữ xe trái phép ở trước cửa chợ Đông Kinh – Lạng Sơn, điều nhiều phóng viên quan tâm sẽ là bán được bao nhiêu vé giữ xe, quay hình ảnh chung chung bãi đỗ xe. Song nếu biết khai thác chi tiết, nếu biết quan sát thì hình ảnh bộ ấm chén và cái phích nước của 2 người trông xe là chi tiết đáng quan tâm khi làm phóng sự truyền hình. Chi tiết này nói lên rằng điểm trông giữ xe ở đây đang ngang nhiên tồn tại, mỗi ngày những nhân viên trông xe uống hết 2 phích nước pha trà ngay giữa đường cái trước cổng chợ. Bản thân chi tiết sẽ có hiệu quả cao trong phóng sự. Vì thế, muốn có những chi tiết tốt cho phóng sự của mình, phóng viên khi đi tác nghiệp ở cơ sở cần đặc biệt rèn luyện kỹ năng quan sát.
 Cũng liên quan đến việc khai thác chi tiết, trình tự sắp xếp cao trào, kịch tính của phóng sự cũng cần được chú ý theo xu hướng từ thấp đến cao.
  Lời bình trong phóng sự ngắn:
Nếu như tác phẩm phóng sự ngắn truyền hình là chỉnh thể hợp thành từ các yếu tố lời bình, hình ảnh, phỏng vấn, dẫn hiện trường… thì lời bình là một trong những yếu tố cấu thành. Câu hỏi đặt ra là liệu lời bình trong một phóng sự ngắn truyền hình khác gì với lời bình trong một phóng sự trên báo viết. Câu trả lời là khác rất nhiều, khác trước hết ở đặc trưng loại hình báo chí, thậm chí, ngay trong cùng một loại hình báo chí thì giữa tin truyền hình, phóng sự “ dài ”, phim tài liệu truyền hình lời bình cũng có sự khác biệt với lời bình trong phóng sự ngắn.
Trong phóng sự ngắn, lời bình là yếu tố cấu thành. Cả phóng sự là chuỗi các hình ảnh, âm thanh, phỏng vấn, lời bình kể về một câu chuyện trong cuộc sống thì lời bình có vai trò bổ sung cho hình ảnh, giải thích hình ảnh.
  Lời bình là một bài văn không hoàn chỉnh, có những lỗ hổng, được lấp đầy bằng hình ảnh và âm thanh. Có ý kiến cho rằng, nếu chỉ đọc thuần túy lời bình sẽ là một văn bản có nhiều trục trặc, thậm chí khó hiểu. Đơn giản vì nó chỉ là một trong những yếu tố cấu thành phóng sự ngắn mà thôi. Muốn hiểu trọn vẹn cần phải xem hình ảnh và nghe âm thanh. Khi làm được điều này thì mới đích thực trở thành một phóng sự ngắn truyền hình chuẩn mực, điều mà không dễ cũng như không phải phóng viên nào cũng làm được. Muốn làm được đòi hỏi phải có tư duy hình ảnh tốt.
Vì vậy, thông thường sẽ là dựng phóng sự hình ảnh xong mới viết lời bình. Tuy nhiên, khi tác ngiệp với tốc độ ngày càng nhanh chóng, đòi hỏi người phóng viên biên tập cần có tư duy hình ảnh tốt. Thậm chí ngay khi đi quay phim, phóng viên biên tập cần phối hợp tốt với quay phim, yêu cầu những cụm cảnh cơ bản, thậm chí nhìn động tác máy của quay phim phóng viên biên tập cũng có thể nắm rõ quỹ hình ảnh khoảng 70 – 80 %, trên cơ sở đó có thể “ liệu cơm gắp mắm”, viết lời bình tương ứng với quỹ hình ảnh có trong tay, tránh tình trạng khi viết lời bình thì “ hoành tráng”, đến khi dựng hình thì lúng túng vì quỹ hình ảnh hạn hẹp.
 Để có lời bình tốt, bên cạnh tư duy hình ảnh tốt, lời bình cần trong sáng, dễ hiểu, giản dị, tùy từng vấn đề mà có cách viết lời bình phù hợp, sử dụng nhiều kỹ năng khi viết lời bình: hài hước, châm biếm hay nghiêm túc, so sánh, liên tưởng, gợi mở…Có những phóng viên sử dụng thành thục cách viết lời bình câu ngắn, nhẹ nhàng nhưng dí dỏm, làm cho khán giả cười châm biếm trước sự việc mang lại hiệu quả cao cho phóng sự. Và đây thực sự là những phóng viên rất vững về tay nghề, khác với những phóng viên trẻ khi làm phóng sự thường dùng những câu từ, văn phong tỏ ra quan trọng, to tát thậm chí là gay gắt.
Nếu quá chú trọng đến lời bình sẽ dẫn đến quá trau chuốt lời bình. Đọc văn bản trơn tru từ đầu tới cuối dẫn tới dạng phát thanh trám hình. Nếu không chú trọng lời bình mà quá coi trọng hình ảnh sẽ dẫn tới đôi lúc khó hiểu, thiếu sự dẫn dắt, thể hiện rõ ý tưởng của phóng sự. Điều hợp lý nhất là sự kết hợp hữu cơ giữa lời bình và hình ảnh trong một phóng sự ngắn. Hữu cơ có nghĩa rằng không thể hiểu cái này mà không xem cái kia, không thể hiểu lời bình trọn vẹn mà không xem hình ảnh, ngược lại không thể hiểu đầy đủ hình ảnh mà không nghe lời bình. Có những trường hợp phóng sự hay phim tài liệu không lời bình song đây là số ít. Muốn làm như vậy đòi hỏi tay nghề cao và gửi đến khán giả thông điệp rõ ràng nhất.
 Lời bình trong phóng sự ngắn nên dùng câu dạng chủ động và câu ngắn. Có lời bình tốt chưa phải đã hết, còn cần giọng đọc tốt, thể hiện tốt ý tưởng của lời bình: gay gắt, nhẹ nhàng, châm biếm…
 Một điểm chung dễ nhận thấy là hiện nay có nhiều phóng sự ngắn truyền hình đang trong tình trạng đầy ắp lời bình, điều này chứng tỏ phóng viên chưa đầu tư công phu cho phóng sự hoặc hạn chế về tư duy hình ảnh. Khán giả truyền hình chắc chắn sẽ vẫn còn ấn tượng bởi phong cách làm phóng sự ngắn truyền hình của nhà báo Văn Thành ( VTV) bởi lối tư duy hình ảnh đầy sáng tạo và rất riêng có của anh, và khi có câu chuyện hình ảnh tốt, lời bình cũng rất ngắn gọn và sâu sắc. Để có lời bình phù hợp, điều quan trọng là cần nắm chắc quỹ hình ảnh mình có hoặc xem lại kỹ hình ảnh trước khi viết.
(Còn tiếp)
Văn Đồng
Đài PT – TH Thái Nguyên

Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt (Bài 1)

Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt (Bài 1)

Phóng sự ngắn là thể loại mũi nhọn được sử dụng phổ biến trong các chương trình Thời sự của các Đài truyền hình. Dù được sử dụng nhiều song nhiều phóng viên vẫn còn khá lúng túng vì thiếu những kiến thức, kỹ năng cần thiết để vận dụng thực hiện phóng sự ngắn. Xuất phát từ thực tiễn của ngành truyền hình, chúng tôi giới thiệu loạt bài viết Để có một phóng sự ngắn truyền hình tốt của nhà báo Văn Đồng – Trưởng Phòng Bạn nghe đài & xem truyền hình, Đài Phát thanh – Truyền hình Thái Nguyên.
















Nếu như trong hệ thống sách thông tấn báo chí , sách nghiên cứu ở Việt Nam, tài liệu về các thể loại báo viết khá dồi dào thì đối với truyền hình nói chung, đặc biệt là thể loại phóng sự ngắn truyền hình còn khá khiêm tốn. Điều này xuất phát từ nguyên nhân, Truyền hình đã phát triển ở Phương Tây nhiều năm nhưng ở Việt Nam sự xuất hiện của Truyền hình chưa lâu, lý luận về loại hình báo chí này chưa phát triển.

Mặt khác, phóng sự ngắn truyền hình dù được sử dụng nhiều song chưa được nghiên cứu nhiều, trong khi đó ngay cả tên gọi “ phóng sự ngắn” vẫn còn là vấn đề tranh luận bởi trên thế giới không có khái niệm phóng sự ngắn, có News, News story, hoặc News pakage. Cụm từ phóng sự ngắn được sử dụng tại Việt Nam theo cách phân biệt với phóng sự chuyên đề. Do đó, nhiều phóng viên có kinh nghiệm sử dụng các tài liệu nước ngoài là nguồn tài liệu tham khảo nghiệp vụ cơ bản khi nghiên cứu các kỹ năng thực hiện phóng sự ngắn truyền hình, trong đó có các tài liệu từ Quỹ Reuters xuất bản của nhiều tác giả, trong đó có Neil Everton.

Bài viết này sẽ không đi sâu vào những vấn đề mang tính “ học thuật”, bởi đó là những gì đã được viết trong sách. Mặt khác, giữa học thuật và thực tế, nhất là lĩnh vực đặc biệt sôi động như báo chí thì khoảng cách đó dài hay ngắn lại phụ thuộc nhiều vào năng lực, sự vận dụng của mỗi phóng viên.

Vì thế, xin được đề cập một vài vấn đề thực tế mà nhiều phóng viên đang băn khoăn hiện nay.

Về đề tài của phóng sự ngắn truyền hình:


Mâu thuẫn- hạt nhân của một đề tài tốt:
            Phóng sự ngắn truyền hình trước hết phản ánh một mâu thuẫn trong thực tế. Mâu thuẫn ấy chính là tính “ có vấn đề ” của phóng sự. Vì thế, mâu thuẫn chính là yếu tố đầu tiên cần có của một phóng sự, đó là đề tài mà phóng sự sẽ phản ánh, sẽ giới thiệu đến khán giả.

Những phóng sự ngắn truyền hình tốt thường là những phóng sự phản ánh về một mâu thuẫn nào đó. Ví dụ: Nước sạch hay sạch nước là phóng sự phản ánh về mâu thuẫn giữa một bên là sự đầu tư nhiều tiền của, sự đúng đắn của chính sách đối với đầu tư công trình nước sạch cho miền núi và một bên là hiện trạng quản lý kém hiệu quả, sự lãng phí. Phóng sự Bản siêu đẻ phản ánh về một hiện tượng sinh đẻ nhiều ở một bản dân tộc Mông ở vùng cao trong khi cả nước đã qua hàng chục năm thực hiện chính sách sinh đẻ có kế hoạch. Phóng sự Những đứa trẻ vùng quặng phản ánh việc trẻ em lao động nặng nhọc mưu sinh tận thu quặng sắt, bỏ lại sau lưng việc học hành và cả tuổi thơ hồn nhiên vốn có. Phóng sự Làng nhặng và nhà máy chết phản ánh mâu thuẫn khi cả nước thực hiện thắt chặt chi tiêu công, chống lãng phí ở thời điểm năm 2013 thì lại có dự án về xử lý chất thải trị giá hàng chục tỉ đồng không hiệu quả, nhà máy nằm lim lìm, gây lãng phí lớn. Phóng sự Tuyên truyền về chủ quyền biển đảo trong Sách giáo khoa – mặt trận còn bỏ ngỏ phản ánh về mâu thuẫn giữa vấn đề chủ quyền biển đảo là vấn đề “ nóng” được dư luận quan tâm thì trong sách giáo khoa dành cho thế hệ tương lai của nước nhà những bài giảng về biển đảo còn quá ít ỏi. Tính mâu thuẫn là yếu tố đầu tiên để có một đề tài tốt, một phóng sự tốt. Vì thế, khi bạn chuẩn bị bắt tay vào thực hiện một phóng sự ngắn truyền hình, điều đầu tiên cần xem xét là đề tài, là tính mâu thuẫn của vấn đề. Mặt khác, bên cạnh tính mâu thuẫn, tính lạ của đề tài cũng tạo nên sức hút của phóng sự. Phóng sựLàm giàu ở Trường Sa là một dạng phóng sự có đề tài “lạ” như vậy.

Đề tài tốt, bắt nhịp hơi thở cuộc sống và phù hợp với khả năng tổ chức hình ảnh của truyền hình là khởi đầu tốt đẹp để thực hiện phóng sự ngắn truyền hình.
Tuy nhiên, cũng có một thực tế là có nhiều đề tài rất tốt song lại khó thể hiện dưới góc độ truyền hình, đó có thể là câu chuyện đã qua, có thể là vấn đề về tư tưởng, về lĩnh vực đặc thù khó khăn cho việc tổ chức hình ảnh, những đề tài về buôn ma túy… Điều này là bình thường bởi nếu như vậy báo viết sẽ có thuận lợi hơn, song với những dạng đề tài khác như bão lũ, dịch bệnh, sự cố tai nạn, hỏa hoạn… chắc chắn truyền hình có ưu thế hơn nhiều bởi sự đặc thù khi mang đến khán giả hình ảnh sống động nhất.


 

Làm thế nào để có đề tài phóng sự hay, hấp dẫn?
Đây luôn là câu hỏi bức thiết đặt ra đối với mỗi phóng viên nói chung, những phóng viên truyền hình nói riêng. Có đề tài tốt là yếu tố đầu tiên để thực hiện một phóng sự hấp dẫn. Vậy có thể khai thác đề tài từ đâu?

* Họp ban biên tập: Những cuộc họp tổ chức sản xuất hàng ngày vào đầu giờ buổi sáng là kênh thông tin chính thống với những đề tài được phân công cho phóng viên thực hiện phóng sự.

* Tính phát hiện của phóng viên: Qua công việc thực tế phóng viên phát hiện đề tài từ cuộc sống, đề tài này qua sự xem xét của cá nhân phóng viên trên cơ sở sự lựa chọn của tư duy ( phát hiện, phân tích, xác định nội dung đề tài…) hình thành đề tài để bắt tay vào thực hiện phóng sự.

* Đề tài phát hiện qua sự cung cấp thông tin của nguồn tin riêng, của nhân dân, của các tài liệu hội nghị, hội thảo, kiểm tra các lĩnh vực, những vấn đề đáng quan tâm qua báo cáo, tiếp xúc cử tri.v.v. Phóng viên luôn quan sát, phân tích những dữ liệu thông tin từ nhiều nguồn. Sự nhạy bén của phóng viên chính là óc quan sát, qua nghe, quan sát, suy nghẫm và giống như sự hoạt động của một trạm ra đa, khi trong tâm trí có tín hiệu báo hình như vấn đề này có điều không bình thường, tại sao những con số báo cáo lại mâu thuẫn? Ý kiến của người dân khi phát biểu tiếp xúc cử tri có điều gì đáng quan tâm… đó là khi sự tập trung đang bắt đầu. Tiếp tục là sự hoạt động mạnh hơn của tư duy và để rồi đề tài của phóng sự ra đời.

* Đề tài phát hiện qua báo chí, tin tức. Ngay cả khi xem điểm tin hàng ngày hoặc đọc báo phóng viên có thể tự sàng lọc thông tin để khai thác đề tài. Ví dụ: Ngay khi xem tin về tình hình mưa bão bắt đầu ảnh hưởng đến đê biển phóng viên đặt vấn đề tại địa phương mình các công trình thủy lợi, các công trình thoát nước đường phố nếu bước vào mùa mưa bão liệu có vấn đề gì không?

* Sự rà soát lại những đề tài trong quá khứ. Đôi khi phóng viên gặp phải tình trạng “ bí đề tài”. Có những lúc hàng loạt đề tài hiện ra, có những lúc thiếu đề tài tốt là chuyện bình thường của phóng viên. Khi gặp trường hợp này lời khuyên là không nên ngồi cắn bút, bóp trán cho ra đề tài mà nên đi ra đường phố, thư giãn tâm trí, hồi tưởng lại hàng loạt đề tài đã qua, chọn lọc để sử dụng nếu phù hợp hoặc mở TV, đọc báo. Rất có thể ngay cả những lúc tưởng chừng vô vọng nhất thì một con số, một hình ảnh, một dòng tin, một câu nói của người bán hàng ở quán cà phê .v.v lại gợi lên một đề tài tốt cho phóng sự.

Cũng cần lưu ý rằng, quá nhiều thông tin sẽ bóp chết thông tin. Một phóng sự ngắn bằng một vấn đề cần giải quyết. Nếu có vấn đề khác nữa hãy dành cho nó bằng một phóng sự khác. Trong một phóng sự ngắn thường chỉ nêu và giải quyết một vấn đề mà thôi.

Cách đặt tên phóng sự ngắn truyền hình:

Cũng giống như các thể loại báo chí khác, đặt tên khơi dậy sự tò mò của khán giả, có sức khái quát nội dung phóng sự phản ánh là điều cần quan tâm khi đặt tên cho phóng sự. Cũng có sự khác biệt của truyền hình, đó là đặt tít cần ấn tượng song lại không được trừu tượng, khó hiểu. Có nhiều cách đặt tên như dạng câu hỏi, dạng đối lập, dạng láy từ… song dạng láy từ trong câu vẫn là cách hiệu quả được nhiều phóng sự sử dụng: VD: Chung cư liệu có an cư? Nước sạch hay sạch nước? Dự án, hiệu quả… hậu quả; Thủ pháp láy từ này có tác dụng khơi gợi sự tò mò của khán giả đối với phóng sự, thu hút sự quan tâm ngay từ đầu.

Kết cấu và thời lượng phóng sự ngắn truyền hình:

Đây có lẽ là điều nhiều phóng viên trẻ mới vào nghề băn khoăn nhiều nhất. Khi đã phát hiện ra đề tài rồi thì cần bắt đầu từ đâu và như thế nào để kể câu chuyện của mình là điều khó khăn.

Thông thường, một phóng sự ngắn truyền hình có thời lượng 1 phút 30 giây. Đây là thời lượng chuẩn của truyền hình ở các nước phát triển. Còn ở Việt Nam, phóng sự ngắn trung bình có thời lượng khoảng 3 phút. Đôi khi, có thể dài hơn tới dưới 5 phút. Điều này được nhiều học giả lý giải là xuất phát từ đặc trưng văn hóa phương Đông và phương Tây. Nhìn chung các nước phương Đông có xu hướng thực hiện phóng sự dài hơn do diễn giải vấn đề chi tiết hơn.

Kết cấu phóng sự ngắn thông thường gồm 3 phần:

- Phần (1): Đây là phần nêu thực trạng vấn đề mà phóng sự phản ánh, đôi khi là hiện trạng, hiện tượng tự nhiên, xã hội mà phóng sự đề cập đến. Trong phóng sự 1’30’’ thì thường 30’’ đầu dành cho nội dung nêu thực trạng vấn đề. Tương ứng với phóng sự ngắn truyền hình sử dụng thông thường ở Việt Nam là 3’ thì dành 1’ đầu cho phần nêu thực trạng vấn đề mà phóng sự đề cập. Kết thúc phần này thường là phỏng vấn nhân chứng, người biết sự việc về hiện trạng được đề cập. VD: Phóng sự phản ánh về sự xuống cấp của một khu dân cư thì phần đầu phản ánh những chi tiết dột nát, nước chảy, đời sống khó khăn của người dân khu dân cư, hết phần 1 là phỏng vấn người dân sống tại khu dân cư đó.

– Phần ( 2): Đây là phần phóng viên thực hiện phóng sự ngắn truyền hình dành để đi tìm nguyên nhân của thực trạng vấn đề đã nêu ở phần (1). Trong phóng sự 1’30’’ thì phần này chiếm thời lượng 30’’, trong phóng sự 3’ như ở Việt Nam thì phần này trung bình khoảng 1’. Như ví dụ trên, phần (1) phóng viên đã phản ánh những chi tiết dột nát của khu dân cư thì bước sang phần ( 2 ) này phóng viên sẽ phản ánh đến người xem nguyên nhân của tình trạng xuống cấp đó. Đó có thể là nhà cũ, sử dụng nhiều năm, có thể là do công trình xây dựng kém chất lượng… Kết thúc phần (2) này sẽ là ý kiến phỏng vấn nhân chứng là người dân hay cán bộ sở tại về nhận định nguyên nhân sự việc, trong trường hợp này là nguyên nhân của sự xuống cấp khu dân cư.

- Phần (3): Phần kết phóng sự, đây là phần xác định trách nhiệm có liên quan đến sự việc được phản ánh trong phóng sự có thời lượng 30’’ trong phóng sự 1’30’’, khoảng 1’ trong phóng sự 3’. Khán giả luôn mong được trả lời câu hỏi vậy cuối cùng ai sẽ phải chịu trách nhiệm về vấn đề được phóng sự đề cập. Tương tự, như ví dụ đã nêu, trong phần này phóng viên sẽ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, ai chịu trách nhiệm về thực trạng xuống cấp của khu dân cư nọ? Đó là Ban quản lý khu dân cư, là chính quyền sở tại hay chủ đầu tư xây dựng khu nhà nếu khu nhà được xây kém chất lượng? Kết thúc phần (3) là phỏng vấn người có liên quan, thường trong các phóng sự ngắn, đây là ý kiến của những nhà quản lý, quan chức có liên quan đến vấn đề mà phóng sự đề cập.

Khởi đầu phóng sự ngắn truyền hình từ đâu?

Có được đề tài tốt trong tay song phải bắt đầu câu chuyện từ đâu luôn là câu hỏi khó khăn. “Vạn sự khởi đầu nan” là vậy. Thông thường, cũng giống như khi sáng tác một bài thơ, một truyện ngắn, khó khăn đối với người thực hiện phóng sự bao giờ cũng là sự khởi đầu phóng sự.

Có hàng trăm con đường để bắt đầu vào một phóng sự ngắn truyền hình. Có nghĩa rằng không có sự cứng nhắc nào để bạn bắt đầu câu chuyện của mình. Tính sáng tạo, sự linh hoạt, nhạy bén của phóng viên thể hiện ngay từ những hình ảnh đầu tiên của phóng sự. Sau khi nắm rõ kết cấu thông thường của một phóng sự, phần (1) là phần nêu hiện trạng, hiện tượng thì phóng viên sẽ tìm ra chi tiết nào quan trọng nhất để đề cập đối với từng phóng sự. Có hàng loạt chi tiết có thể khai thác, đơn cử như trong ví dụ về phóng sự về khu dân cư xuống cấp nêu trên. Chi tiết mở đầu có thể là : Nhân viên quản lý khu dân cư đi chọc vữa trần nhà rơi; Gia đình A đang ăn cơm dưới tảng vữa nứt to trên trần nhà; Gia đình A chuyển nhà đi nơi khác vì căn hộ của họ không an toàn; Nhân viên quản lý đi gọi loa nhắc nhở những vị trí cần đề phòng nguy hiểm; Những đứa trẻ chơi trong nhà đóng kín cửa vì bố mẹ không cho ra ngoài sợ nguy hiểm v.v. Muốn có chi tiết hay phóng viên cần quan sát kỹ khi tác nghiệp, hỏi chuyện cũng là cách phát hiện ra những chi tiết hay để khai thác cho phần mở đầu phóng sự.

Các phóng viên thường sử dụng từ ví dụ cụ thể đến khái quát để mang lại sự sinh động cho phóng sự ngắn. Đây là việc đảo ngược quy trình truyền thống, khác với một bài văn khi luôn mở đầu từ cái chung, cái tổng thể trước khi đi vào chi tiết. Nói một cách hình ảnh hóa thì việc sắp xếp chi tiết mở đầu phóng sự cũng giống như sắp xếp 3 cỡ cảnh: Cận -> Trung -> Toàn thường mang lại hiệu ứng ấn tượng hơn là Toàn -> Trung -> Cận.



Dẫn hiện trường trong phóng sự ngắn:

Dẫn hiện trường ( stand up) đã và đang ngày càng được sử dụng nhiều khi thực hiện phóng sự. Bản thân việc dẫn hiện trường mang tính xác thực thông tin cao, thể hiện sự nhập cuộc của phóng viên với vấn đề phóng sự phản ánh. Trong kết cấu nêu trên, việc dẫn hiện trường hoàn toàn có thể linh hoạt thực hiện trong cả 3 phần của phóng sự.

- Ở đầu phóng sự thường là giới thiệu bối cảnh và tình huống.

- Ở cuối phóng sự thường là đưa ra kết luận hoặc những dự đoán thông tin tiếp theo.

- Ở giữa thường là một thông tin then chốt, gây bất ngờ, tạo kịch tính cho phóng sự.

Lời dẫn hiện trường cần được chuẩn bị tốt, ngắn gọn, xúc tích, người dẫn cần tự nhiên, sáng tạo, linh hoạt, tránh nói ngọng, nói lắp và ngoại hình phù hợp không gian, bối cảnh phóng sự. VD: Tránh trường hợp một phóng viên ăn mặc diêm dúa ở một vùng nghèo khó dễ gây sự phản cảm, tránh tươi cười trước sự việc hỏa hoạn, thiên tai… Hình ảnh quay dẫn hiện trường cũng cần lưu ý bao quát bối cảnh không gian nơi dẫn, có thể linh hoạt dẫn ngồi, đứng hay di chuyển ( traverlling).

Dẫn hiện trường tốt là khi nó thực sự trở thành một yếu tố cấu thành trong phóng sự ngắn, phản ánh mang tính dẫn dắt, điểm nhấn hay gây bất ngờ, khái quát vấn đề hoặc kết, gói lại vấn đề đã phản ánh, tránh sử dụng dẫn hiện trường như một sự minh họa hay chỉ đơn thuần chứng minh phóng viên đã có mặt tại hiện trường. Như vậy sẽ làm giảm hiệu quả dẫn hiện trường.

Một phóng viên có kinh nghiệm luôn chú ý việc dẫn hiện trường bởi giá trị hiệu quả cao của việc dẫn hiện trường. Mặt khác, người phóng viên đó cũng sẽ linh hoạt sử dụng “ đạo cụ” để dẫn hiện trường cho sinh động. Ví dụ: Tay cầm hòn quặng khi dẫn hiện trường ở bãi quặng phản ánh nạn khai thác quặng trái phép, xắn quần lội nước, mặc áo mưa khi dẫn hiện trường ở vùng lũ .v.v.

( còn tiếp)

Văn Đồng
Đài PT – TH Thái Nguyên

Xử lý âm thanh trong phim truyện (Bài 7)

Xử lý âm thanh trong phim truyện (Bài 7)

VTVTC: Website daotao.vtv.vn đi vào hoạt động từ 12/4/2013. Điều làm chúng tôi rất vui là những thông tin phản hồi tích cực từ các đồng nghiệp trong cả nước. Hơn thế, nhiều đồng nghiệp còn sẵn sàng chia sẻ với daotao.vtv.vn những kiến thức, kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình làm nghề và học tập.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết thứ bẩy ” Xử lý âm thanh trong phim truyện” của Thạc sĩ Bùi Thái Dương- Trưởng phòng Đạo diễn và Quay phim – Ban Thể thao – Giải trí và Thông tin kinh tế- Đài truyền hình Việt Nam.
Lời thoại
Trong phim câm, hình ảnh nói được rất nhiều nhưng vẫn phải dùng những phụ đề để làm rõ hơn thông điệp của hình ảnh, dần dần, cùng với  sự phát triển của công nghệ, người làm phim đã cho nhân vật nói được tiếng nói của mình. Tuy nhiên lời thoại trong phạm trù của ngôn ngữ điện ảnh chỉ được vang lên khi cần thiết và được tiết chế tối đa ở từng câu, thường mang tính chất rất đời, đôi khi mang đậm tính hài hước nhưng sắc sảo và thông minh. Chú ý khi sử dụng thoại kiêng dùng quá nhiều điển tích, thổ ngữ và cổ ngữ.
          Có thể lấy một ví dụ thú vị trong phim Đời cát (đạo diễn Nguyễn Thanh Vân). Để chuẩn bị đón tiếp “bà hai”, ông Cảnh đào hũ rượu chôn dưới đất lên để uống lấy sức (!). Thấy thế bà Thoa (vợ cả) hỏi: “Sao biểu chôn sáu tháng mới uống được?”. “Chà, uống quách đi cho rồi”. Bà Thoa không nói gì, vào buồng rũ chiếu, vui vẻ nói với Tâm (bà hai):  “Cả đời mới gặp nhau, chị em mình ngủ chung cho vui, nghe thím”. “Dạ. Tâm gượng cười đáp”. Ông Cảnh lẳng lặng đổ ly rượu vừa rót vào hũ. Trong đêm, cùng dưới một mái nhà, cả ba nhân vật đều trằn trọc khó ngủ. Tâm ngồi dậy. Phòng ngoài, ông Cảnh nhổm người nhìn sang… Bà Thoa hỏi: “ Đang sớm mà thím”. “Dạ, em ra sân hóng gió”. “Nóng hả thím?”
        “Nóng hả thím?”, câu hỏi của bà Thoa thật “đắt” trong trường hợp này, khi hai người đàn bà nằm chung một giường giữa đêm hè nóng nực, người nọ thao thức để canh chừng người kia, trong khi một người đàn ông nằm nhà ngoài cũng ruột gan cồn cào như lửa đốt. Và một tiếng cười ý nhị bật lên trong khán giả khi chứng kiến hoàn cảnh trớ trêu của ba nhân vật, mà trung tâm là bà Thoa với mọi nỗ lực ngăn cản sự gần gũi giữa chồng mình và cô vợ hai, chỉ với vài câu thoại cũng đủ bộc lộ lên tính cách, tâm tư tình cảm của người phụ nữ này.

Cảnh trong phim Đời cát của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân
 Âm nhạc
Đạo diễn Nga S. Eisenstein đã nói: “Chính âm nhạc khái quát ý tưởng của hình ảnh”, qua đó khẳng định ý nghĩa, chức năng của nhạc phim. Nhạc phim có khi đơn thuần dùng để minh họa hình ảnh mang tính chất giải trí nhưng cũng có khi là nhân tố cấu thành vô cùng quan trọng để biểu hiện ý tưởng nghệ thuật và kịch tính của tác phẩm. Đạo diễn phải xử lý tạo hình của nhạc phim như thế nào để có được những hình tượng âm nhạc phù hợp với hình tượng nhân vật, đồng thời kiểm soát được việc xử lý âm nhạc ngay cả trong những tình tiết ngắn. Cảnh hành quyết tù binh trong bộ phim Đêm dài 1943 (1960) được ghép nhạc bằng hành khúc phát xít tưng bừng hay hình ảnh hạnh phúc ở cuối phim Ly dị kiểu Ý (1961) diễn ra dưới âm hưởng của hành khúc tang lễ. Đặc biệt, ý nghĩa của âm hình chủ đạo trong nhạc phim đã đạt đến bước tiến triển vượt bậc, nó bao quát và biểu hiện ý tưởng nghệ thuật ngầm của bộ phim mà đôi khi không thể diễn tả hết bằng hình ảnh, chẳng hạn như chủ đề Jelcomine trong phim Italia Con đường (1954 – đạo diễn F. Fellini – âm nhạc Rota). Không hiếm khi nhạc phim không dùng để biểu hiện cảm xúc mà ngược lại – để kiềm chế cảm xúc như trong phim Pháp Bốn trăm cú đánh(1959 – đạo diễn Truffo – âm nhạc Konstaten). Ở đây, nhạc sĩ đã dựng nên hình tượng – chủ đề âm nhạc nghiêm khắc nhằm đòi hỏi khán giả đánh giá một cách khách quan đối với sự kiện trên màn ảnh. Nhạc phim có thể là tác phẩm âm nhạc được định hướng sáng tác cho bộ phim cụ thể nhưng cũng có khi được tập hợp từ các giai điệu, ca khúc và giao hưởng nổi tiếng. Rất nhiều bộ phim sử dụng âm nhạc của Bach, Mozart. Wagner … đạt hiệu quả cao, điều đó giúp cho người xem liên tưởng những sự kiện xã hội đương thời với những hình tượng truyền thống cao đẹp. Trong thể loại phim đặc biệt – phim âm nhạc – đạo diễn càng phải có những xử lý tinh tế bởi ở đây, âm nhạc không chỉ đảm nhiệm vai trò tổng quát mà còn trở thành nội dung chính của tác phẩm điện ảnh – thí dụ như các phim opera của những năm 80 La Traviatta, Carmenvà Otello. Ở các tác phẩm này, khán giả không phải thưởng thức Opera như một chương trình truyền hình với cảnh trí sân khấu mà được cảm nhận các tác phẩm âm nhạc vĩ đại như một bộ phim thực thụ – trong đó kết hợp nhuần nhuyễn cả hai yếu tố – âm nhạc và hình ảnh. Nhiều bản nhạc phim đã vượt xa ý nghĩa khiêm nhường như một nhân tố cấu thành của tác phẩm điện ảnh và trở thành các hình tượng nghệ thuật bất hủ, ví dụ như âm nhạc cho bộ phim Nga Bão tuyết của nhạc sĩ Sviridov. Mỗi khi nhắc đến bộ phim này, đầu tiên, người ta thường nghĩ ngay đến âm nhạc, sau đó mới đến nỗi dung của bộ phim. Có lẽ chính vì vậy mà nhạc phim Bão tuyết luôn nằm trong danh mục biểu diễn của các Philharmonic danh tiếng trên thế gới. Không những thế, người ta còn sáng tác cả vở balet lớn dựa trên âm nhạc của bộ phim này. Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng, không chỉ làm nền, tạo hiệu ứng cho hình ảnh và lời thoại mà còn truyền cảm hứng cho cả một bộ phim [53]. Một ca khúc hay bản nhạc cũng dễ được quảng bá hơn khi xuất hiện trong các bộ phim. Rõ ràng, âm nhạc và điện ảnh có mối quan hệ tương hỗ mà nếu làm tốt thì cả hai đều có lợi và tạo thành những tác phẩm nghệ thuật có giá trị riêng, như nhạc sĩ Trọng Đài từng nói: “Một ca khúc trong phim nếu xuất sắc sẽ tách khỏi bộ phim và có đời sống riêng với sức sống riêng của nó”.
         Một trong những minh chứng cho sự tài hoa của đạo diễn trong xử lý tạo hình nhạc phim, đó là bộ phim Titanic (1997) kể về vụ đắm tàu Titanic – một trong những sự kiện kinh hoàng nhất thế kỉ 20 và mối tình nồng thắm vượt trên mọi rào cản của 2 nhân vật trẻ tuổi Jack và Rose. Với sự dàn dựng của James Cameron, Titanic đã trở thành một trong những bộ phim nổi tiếng nhất mọi thời đại, đã đạt kỉ lục về số giải thưởng Oscar (11 giải ) trong đó có một giải thưởng danh giá dành cho âm nhạc xuất sắc nhất. James Cameron đã tỏ ra là một đạo diễn rất tinh tế và nhạy cảm trước những chuyển động đầy hình khối và màu sắc của hình ảnh và âm thanh. Ông đã kết hợp được sức mạnh tổng hợp của hiệu ứng hình ảnh và hiệu ứng âm thanh. Ta có thể thấy ngay ý đồ của tác giả trong bộ phim là nhấn mạnh vai trò âm nhạc, đưa âm nhạc trở thành yếu tố chủ đạo, xuyên suốt bộ phim. Với sự hoành tráng trong dựng cảnh và sự bề thế của âm nhạc đã đưa người xem đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, đi từ những sự rung động nhẹ nhàng đến sâu sắc. Chủ đề âm nhạc chính trong bộ phim là tình yêu đôi lứa, là trái tim dũng cảm vượt lên mọi rào cản để được ở bên nhau. Có thể nói, âm nhạc trong phimTitanic như một bản nhạc giao hưởng lớn mà mỗi trường đoạn của bộ phim là một phần của bản giao hưởng đó. Âm nhạc góp phần thể hiện mọi cung bậc cảm xúc của nhân vật, cũng như làm tăng thêm sự kịch tính và hấp dẫn trong từng dây, từng phút của bộ phim. Âm nhạc là chủ đạo, chính âm nhạc đã tạo ra không gian âm thanh đa chiều cho bộ phim.
Tiếng động
Trong phim, tiếng động giúp hướng sự chú ý của người xem vào nó. Giả sử chúng ta có cận cảnh một người đàn ông trong phòng và chúng ta nghe thấy tiếng cót két của cánh cửa đang mở. Nếu đúp quay tiếp theo là cánh cửa , bây giờ đã mở thì sự chú ý của người xem có lẽ sẽ chuyển sang cánh cửa đó. Nhưng nếu đúp quay thứ hai thể hiện cánh cửa vẫn mở, người xem dường như sẽ ngẫm nghĩ về cách hiểu tiếng động đó của mình. Do vậy tiếng động có thể làm rõ các sự kiện hình ảnh, phủ định chúng, hoặc làm chúng mờ nhòa đi. Trong mọi trường hợp, tiếng động có thể có quan hệ tích cực với hình ảnh. Ví dụ về cánh cửa đang mở này gợi mở lợi thế nữa của tiếng động. Nếu chúng ta nghe tiếng cánh cửa cót két, chúng ta sẽ phán đoán có ai đó vào phòng và chúng ta sẽ thấy người đó ở đúp quay tiếp theo. Nhưng nếu phim đi theo thể loại phim kinh dị thì máy quay có thể dừng lại ở con người đang bắt đầu hoảng sợ ở đó. Do đó chúng ta sẽ ở trong trạng thái hồi hộp giống như quỷ hiện diện ngoài màn ảnh. Những phim kinh dị và huyền bí thường sử dụng uy lực của tiếng động từ một nguồn vô hình khiến công chúng hứng thú, song tất cả các loại phim đều có thể tận dụng ưu thế này. Tùy từng cách xử lý của đạo diễn có thể đánh lừa hoặc tái định hướng một cách sáng tạo mong đợi của người xem, tạo ra những hiệu quả cao với người xem.
Bùi Thái Dương
Đài truyền hình Việt Nam

Đạo diễn với nghệ thuật quay phim ( Bài 6)

Đạo diễn với nghệ thuật quay phim ( Bài 6)

VTVTC: Website daotao.vtv.vn đi vào hoạt động từ 12/4/2013. Điều làm chúng tôi rất vui là những thông tin phản hồi tích cực từ các đồng nghiệp trong cả nước. Hơn thế, nhiều đồng nghiệp còn sẵn sàng chia sẻ với daotao.vtv.vn những kiến thức, kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình làm nghề và học tập.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết thứ sáu ” Đạo diễn với nghệ thuật quay phim ” của Thạc sĩ Bùi Thái Dương- Trưởng phòng Đạo diễn và Quay phim – Ban Thể thao – Giải trí và Thông tin kinh tế- Đài truyền hình Việt Nam.

Đạo diễn Bùi Thái dương tác nghiệp tại Trường Sa

Bố cục và chiếu sáng
Bố cục khuôn hình điện ảnh là sự sắp xếp các vật thể, bối cảnh, ánh sáng, chuyển động nhân vật, góc độ máy sao cho tổng thể đạt tới sự cân đối, đôi khi là ấn tượng của thị giác. Bố cục được xem là ổn thoả khi trong nó không có sự dư thừa, rối rắm. Nhưng một bố cục khung hình đẹp đòi hỏi nhiều thứ khác, trong đó có điểm mạnh.
Không như sân khấu, điện ảnh cho phép người quay phim cắt cúp thân thể, vật thể, cho phép những cận cảnh rất chặt. Điều đó – một gương mặt cắt ngang trán, một mái nhà hất cao chẳng hạn – khiến bố cục khung hình điện ảnh trở nên độc đáo, ấn tượng. Khuôn hình điện ảnh có năm kích cỡ căn bản: đặc tả, cận cảnh, trung cảnh, toàn cảnh, toàn cảnh rộng. Đặc tả khi máy dí sát vào đối tượng để nhận ra một chi tiết. Bố cục điện ảnh hoàn chỉnh là một bố cục không chỉ nhắm tới cái đẹp, cái lạ mà góp phần tạo nên kịch tính. Vì vậy đòi hỏi mỗi đạo diễn cần thể hiện khả năng của mình trong việc tạo hình để có những bố cục đẹp cho phim.
Ánh sáng là chất liệu đầu tiên của việc thu hình, là nguyên tắc kỹ thuật – bảo đảm đúng sáng chẳng hạn – nhưng cùng lúc cũng là nơi biểu hiện tâm hồn, phong cách của đạo diễn: người ưa tương phản, người thích mượt mà, sáng trưng, hoặc người thích sự lung linh mờ ảo.
Đạt được hiệu quả đặc biệt và thấy rõ ràng nhất là ở trong phim Mùa len trâu của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh. Cảnh sông nước buổi bình minh, sông nước buổi chiều và cảnh đêm xuống. Ánh sáng trong phim tạo cho người xem trở về với miền quê của Việt Nam, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long mùa nước nổi. Tất cả những hiệu quả đó tùy thuộc cách đặt sáng, độ nhạy của phim, chế độ in tráng. Nhưng trên hết, tuỳ thuộc cảm quan người đạo diễn với nghệ thuật quay phim. Đạo diễn cần bàn bạc với người quay phim để phác hoạ sơ đồ đặt sáng trước khi quay, dù mọi toan tính có thể lệch do khách quan thay đổi. Cách chiếu sáng hiệu quả trong điện ảnh rất mênh mông, tùy theo những xử lý khác nhau phù hợp mục đích tác giả.

Đoàn làm phim Mùa len trâu tác nghiệp
Với ánh sáng thẳng, khi nguồn sáng chính chiếu trực diện vào đối thể, hình ảnh sẽ rõ nhưng không cho hình khối. Đây là cách chiếu sáng đơn giản, an toàn, chân phương nhất nhưng ít nghệ thuật nhất. Ở đây là cách chiếu sáng ngược: khi nguồn sáng chính nằm sau lưng đối thể, cách chiếu sáng cho độ tương phản rất cao, chi tiết đối thể không rõ, nhưng nổi bật hình khối nhờ các viền sáng ngược. Và đó còn là cách chiếu sáng ven: Là nguồn sáng trung dung giữa 2 cách chiếu sáng kể trên, được dùng nhiều trong điện ảnh bởi nó cho cảm giác mọng mượt, vừa nổi khối, vừa thấy rõ chi tiết.
          Yêu cầu về ánh sáng trong mỗi bộ phim rất khác nhau, và căn cứ vào ý tưởng nghệ thuật cùng yêu cầu của từng đạo diễn. Người đạo diễn cần đưa ra những ý đồ nghệ thuật cũng như quyết định ánh sáng của phim với người phụ trách ánh sáng.
Ở đây ánh sáng ảnh hưởng mật thiết đến sự thành công của một bộ phim. Nói cho cùng, tất cả những công việc sản xuất như phông màn, đạo cụ, tài năng…. đều phải dựa vào ánh sáng mới nổi bật được. Ánh sáng ẩu dễ làm hư một tác phẩm nghệ thuật, và ngược lại, ánh sáng đẹp sẽ làm tăng thêm giá trị một bộ phim bình thường.  Kinh nghiệm và phong cách là những yếu tố cần thiết để đạo diễn chọn một người quản lý ánh sáng. Kinh nghiệm rất quan trọng. Lo ánh sáng cho một góc quay hay nhiều góc quay cùng một lúc là những chuyện rất khác nhau. Nhiều người phụ trách ánh sáng đã vô cùng lúng túng khi tìm cách lên đèn cho một cảnh sử dụng nhiều máy quay ở các góc độ, nhất là khi họ đã quen với kiểu quay một máy. Nói về phong cách, đó là khả năng ghi nhớ bối cảnh của một bộ phim.
Ví dụ trong một bộ phim khung cảnh đồng quê, phụ trách ánh sáng cần chú ý hạn chế kiểu ánh sáng thành thị màu mè.Phụ trách ánh sáng phối hợp chặt chẽ với đạo diễn để cùng làm tôn lên phong cách nghệ thuật của một bộ phim. Có câu chuyện kể rằng khi một vị đạo diễn nổi tiếng và đáng kính được các sinh viên hỏi điều gì quan trọng nhất họ có thể làm để nâng cao chất lượng hình ảnh, ông đã trả lời: “Hãy thuê người phụ trách ánh sáng tốt nhất có thể, thậm chí chia một phần lương của mình cho anh ta” .
Đạo diễn cần phải hiểu rõ về ánh sáng và đưa ra ý đồ của mình với người phụ trách ánh sáng vì khi quay phim thường sử dụng ánh sáng từ các hướng khác nhau để quay cận cảnh mặt diễn viên. Đôi lúc trong những cảnh nhiều máy quay phim ở các góc độ, không sử dụng ánh đèn nào cả. Nhà quay phim điều khiển máy quay, kiểm tra và chịu trách nhiệm về các đoạn phim đã thực hiện: ánh sáng, góc nhìn, hình ảnh và sự diễn đạt âm thanh.
Đạo diễn cần nắm rõ cấu tạo của máy quay và thường giải quyết những vấn đề kỹ thuật xảy ra trong suốt quá trình làm phim trong khi quay phim thì thạo sử dụng ánh sáng với nhiều kiểu và độ nhòe khác nhau. Trong những cảnh hoành tráng, đạo diễn thường quản lý nhiều nhà quay phim lo riêng về các chuyển động của máy quay.

Cảnh trong phim Mùa len trâu
 Tông phim và màu sắc
          Màu sắc chủ đạo trong phim phụ thuộc vào độ đậm nhạt của nó trong hình, cũng giống như trong hội họa, sẽ kết hợp với những yếu tố khác để tạo ra những hiệu quả hình ảnh đặc biệt. Tùy vào từng nền văn hóa mỗi màu sắc cũng có những ý nghĩa đặc trưng một cách khách quan. Màu xanh lá cây tượng trưng cho hy vọng, màu đỏ tượng trưng cho bạo lực…Nhưng màu sắc và những yếu tố hình ảnh, âm thanh trong phim sẽ kết hợp với nhau và làm thay đổi những nền tảng khách quan này. Như vậy là màu sắc có một khả năng biểu cảm thực sự cả khi nó đứng riêng rẽ hay khi kết hợp với sự lựa chọn ống kính, với các động tác máy
          Tuy nhiên màu còn tùy thuộc vào độ đậm đặc của nó trong khuôn hình. Cũng giống như trong hội họa, sẽ kết hợp với những yếu tố khác để tạo ra những hiệu quả hình ảnh đặc biệt.
          Ví dụ như trong phim Đôi cánh của đam mê (đạo diễn Wenders), một phần lớn của phim được quay đen trắng. Khi diễn viên chính, Bruno Ganz, một trong các thiên thần quyết định là sẽ sống trên mặt đất, chấp nhận mất cánh, sống với những nỗi đau cũng như những niềm vui của loài người thì hình ảnh chuyển sang có màu. Trong phim này màu tượng trưng cho trần gian và đen trắng tượng trưng cho cuộc sống trên thiên đường nhưng có vẻ như nặng nề bởi tính vĩnh cửu.
Đa số các phim được làm là phim màu nhưng những cảnh quay đen trắng có thể được sử dụng để tạo ra một không khí kịch tính với vẻ siêu thực, phù hợp cho trí tưởng tượng phát triển. Sự lựa chọn này sẽ ảnh hưởng trực tiếp cảm nhận của khán giả về cả tác phẩm.
Các thủ pháp và góc độ quay phim
Đạo diễn phải tập trung suy nghĩ về sự chuyển động của cảnh và sự phối hợp giữa các cảnh. Góc quay là góc nhìn từ máy quay với chiều sâu, chiều dài, chiều rộng cân xứng với vật hay hành động được quay. Góc nhìn từ máy quay không chỉ quyết định cái gì sẽ xuất hiện trong cảnh đó mà nói chung còn là cách khán giả sẽ nhìn sự việc – gần hay xa, từ trên xuống hay từ dưới lên, chủ quan hay khách quan… Do đó sự chọn góc quay không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ câu truyện mà còn thể hiện chất lượng thẩm mỹ của cảnh quay và quan điểm tâm lý của khán giả. Có những quy ước quan sát quốc tế dành cho chuyển động máy quay. Theo quy định, một nhà quay phim sẽ chạy máy quay ở vị trí nhất định trong một thời gian ngắn trước khi bắt đầu chuyển động, và đứng im một lần nữa sau khi hoàn tất chuyển động. Một cách nhìn thoáng hơn về luật này là chuyển động bắt đầu và kết thúc ở một điểm đặc biệt nào đó đã được chọn sẵn và quay tập nhiều lần trước khi quay chính thức.
Đạo diễn trong trường hợp này phải quyết định chuyển động máy, ví dụ sau một cảnh quay ngang từ trái sang phải không thể nào có cảnh quay ngang từ phải sang trái, hay là sự chuyển động của nghệ sĩ từ trái sang phải không thể theo sau một sự chuyển động khác từ hướng ngược lại. Ngoài kiểu quay thường còn có kiểu quay cầm tay, một máy quay xách tay nhẹ cân cầm trên tay của nhà quay phim và dựa vào vai của người đó mà không cần dùng chân chống. Kiểu quay này bắt nguồn từ nhà quay phim thời sự và được sử dụng rộng rãi trong các phim tài liệu và những nhà làm phim tiên phong. Đầu những năm 60’ việc sử dụng máy quay phim cầm tay trong việc sản xuất phim điện ảnh ngày càng tăng, vừa tiện lợi vừa đạt được cảm giác thật hơn trong một số cảnh quay.
Có thể nói đặc tính của điện ảnh là chuyển động, điếu đó không có nghĩa máy quay nhất thiết phải luôn luôn xoay trở. Chuyển động điện ảnh bao hàm sự chuyển động của máy, chuyển dịch của các đối thể, chuyển động của nội tâm, tính vận động của toàn câu chuyện. Kỹ thuật chia sự “xê dịch” có hai kiểu chính: Lia (pan) và trượt (dolly, travelling). Lia là sự quét máy từ hướng này sang hướng khác, cả chiều ngang lẫn chiều xéo , chiều dọc theo đưởng thẳng. Dolly – hay travelling là sự đeo bám đối tượng trên mặt đất, theo đường thẳng, đường cong hoặc đường tròn. Bằng sự chuyển dịch có ý thức của máy, của ánh sáng sẽ tạo ra những khuôn hình đẹp. Cái đẹp là đích đến của điện ảnh.
Tác phẩm điện ảnh là “cái nhìn” của đạo diễn, được thể hiện qua khuôn hình ở các góc quay khác nhau.
Góc quay là góc nhìn từ máy quay với chiều sâu, chiều dài, chiều rộng cân xứng với vật hay hành động được quay. Góc nhìn từ máy quay không chỉ quyết định cái gì sẽ xuất hiện trong cảnh đó mà nói chung còn là cách khán giả sẽ nhìn sự việc – gần hay xa, từ trên xuống hay từ dưới lên, chủ quan hay khách quan… Do đó sự chọn góc quay không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ câu truyện mà còn thể hiện chất lượng thẩm mỹ của cảnh quay và quan điểm tâm lý của khán giả. Qua nhiều năm, đạo diễn và nhà quay phim đã thành lập một kiểu quy ước liên quan đến kỹ thuật, thẩm mỹ và đặc tính tâm lý của nhiều góc quay khác nhau. Góc ngang (vừa tầm mắt) để diễn tả cảnh giống như thật nhưng ít kịch tính. Người ta cho là nó cung cấp cái nhìn bình thường và thường quay từ độ cao 1.2 m đến 1.8 m. Tầm mắt của nghệ sĩ (chứ không phải của nhà quay phim) quyết định chiều cao của máy quay, và đặc biệt chủ yếu trong những khi quay cận cảnh. Vì hướng nhìn bình thường nên cảnh quay góc ngang thường được sử dụng để tạo nên tình huống và chuẩn bị cho khán giả một cảnh liên quan. Trong cảnh quay góc cao máy quay nhìn xuống sự vật. Theo kỹ thuật thì nó có thể cho phép đạo diễn có cái nhìn bao trùm hết mặt đất và hành động trong chiều sâu. Cảnh như vậy cũng sẽ có khuynh hướng làm chậm hành động lại và giảm bớt độ cao của sự vật hay nhân vật (theo luật xa gần). Nét đặc trưng cuối cùng này có thể gây ra nhiều hiệu quả tâm lý phụ, ví dụ như cho khán giả cảm giác mạnh mẽ hơn nhân vật trên màn ảnh hay ngụ ý hạ thấp tầm quan trong của bất cứ nhân vật nào với những người hoặc khung cảnh xung quanh.
 Trong nghệ thuật quay có vài nguyên tắc thể hiện của góc máy: Máy hất lên cho cảm giác thanh thoát, tôn trọng.
Bộ phim Tướng về hưu (đạo diễn Khắc Lợi) là câu chuyện đau xót về những tình cảm gia đình đã mất đi trong cơn lốc của thời mở cửa, một vị tướng rời quân ngũ trở về gia đình và hoàn toàn lạc lõng trong một đời sống đang thay đổi với những giá trị bị đảo lộn hàng ngày.
          Tình cảnh gia đình ông Thuấn dường như rất phổ biến trong xã hội Việt Nam lúc giao thời, khi đồng tiền len lỏi và chi phối trong mọi mối quan hệ. Ông Thuấn như người xa lạ trong chính ngôi nhà của mình trước cô con dâu sắc sảo, người con trai nhu nhược và một bà vợ lẩn thẩn. Hình ảnh người tướng già đột qụy ở cuối phim trong tư thế nằm nghiêng ở cầu thang, một tư thế bó hẹp về góc máy.
Còn máy chúc xuống gây hiệu ứng trái ngược, khi mô tả khách quan máy không thể cao, thấp, xéo, nghiêng…tuỳ thích mà phải tương đương với mắt nhân vật; chỉ khi máy đại diện cái nhìn chủ quan tác giả thì góc độ mới tự do. Dù ở góc độ nào đi nữa, một tác phẩm điện ảnh “đẹp” là khi nó rung động trái tim người xem.

Một số hình ảnh phim tướng về hưu
Trong phim The Last Laugh  – Tiếng cười sảng khoái cuối cùng (đạo diễn Murnau), diễn viên Emil Jannings thường được quay từ trên xuống sau sự sụp đổ của ông, trong khi trước đó các cảnh miêu tả ông như là một ông gác cổng kiêu hãnh thường được quay ở góc thấp. Trong cảnh quay góc thấp, máy quay thường đặt ở dưới nhìn lên sự vật. Hiệu quả của cách này thường là để tạo kịch tính, tạo nên sự xuyên tạc quyền lực của viễn cảnh và toàn bộ sự việc. Nó thường đẩy nhanh diễn biến phim, thêm tầm cao và sức mạnh cho nhân vật. Sự sắp đặt máy quay góc thấp chiếm ưu thế trong phim Citizen Kane (Công dân Kane) của Orson Welles để làm nổi bật sự to lớn phi thường của ông trùm báo chí. Để chấp nhận việc thường xuyên sử dụng kiểu quay này, Welles đã phải xây dựng phim trường toàn là trần nhà. Chính sự có mặt khắp nơi của trần nhà ở cảnh nền đã tạo nên một trong những nét đặc trưng khác thường của Citizen Kane. Chỉ đơn thuần thay đổi góc quay, đạo diễn có thể không chỉ cho thấy sự thăng trầm trong cuộc đời nhân vật mà còn thổi vào thái độ khán giả phải chấp nhận qua những cá tính và hành động trong phim. Sự đa dạng trong các góc quay là vô tận. Không có luật lệ nào về chuyện phải sử dụng góc quay nhất định cho một cảnh nào đó. Góc ngang, góc cao và góc thấp chỉ là những nhóm chính, như là cách quay cạnh (thêm một chiều nữa cho sự vật), góc Hà Lan/ khung nghiêng (nhìn sự vật trong cái nhìn nghiêng hiệu quả cao) và rất nhiều góc quay khác được sử dụng cũng như chưa được biết đến qua bao nhiêu thập kỷ làm phim.
(Còn tiếp)
Bùi Thái Dương
Đài truyền hình Việt Nam

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review