THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

Vấn đề phim tài liệu (Bài 4 - 6)


Các nhân tố trong Phim tài liệu (Bài 4)

 
Mát-xcơ-va. Quảng trường đỏ. Ngày 25-5-1919. Lê-nin duyệt các đội công nhân vũ trang.
Các bạn, cũng như tôi, trong khi xem bất kì một bộ phim nào, có lẽ chẳng ai lại tự hỏi hay thử tìm hiểu, trong đó có những nhân tố gì, hay nói cách khác, những gì tạo nên phim. Đơn giản, là vì chúng ta chỉ xem phim, tiếp thụ nội dung của nó với những cái hay, cái dở, thế thôi. Nhưng nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy có những điều đáng được đem ra trao đổi.
Trước hết, là phần hình ảnh. Đây cũng chính là phần quan trọng nhất trong bất kì thể loại phim nào, hay nói rộng ra, là các sản phẩm nghe nhìn (lẽ ra, phải gọi là xem và nghe mới đúng! Vì nhìn chưa chắc đã là xem. Còn xem là hành động có ý thức của con người). Nếu như nhà văn dùng ngôn ngữ, họa sĩ sử dụng màu sắc, còn nhạc sĩ phải lụy đến âm thanh để làm nên tác phẩm, thì rõ ràng, người đạo diễn phải dùng hình ảnh để “viết” thành bộ phim của họ. Nhưng cái gì tạo nên hình ảnh? Xin thưa, đó chính là bối cảnh, phong cảnh, kiến trúc, con người, loài vật, đồ đạc, … nghĩa là tất cả những gì mang tính hữu hình.
Nhưng tại sao lại là “bối cảnh, phong cảnh, kiến trúc” rồi mới đến con người? Ai cũng biết, con người là trung tâm của vũ trụ kia mà! Vâng, đúng thế. Song le, các bạn có để ý không, có ai trong ta lại chẳng bị ràng buộc với một không gian cụ thể, tuyệt đối, toàn diện, không bao giờ tách rời ra được, thậm chí cả đến sau khi chết. Vả chăng, các bối cảnh, phong cảnh, kiến trúc… luôn luôn chứa đựng trong nó cả thời gian, lịch sử, văn hóa, hồn cốt của cả một dân tộc hay thời đại đã qua. Ví dụ, nhìn thấy hình ảnh điện Kremli, có ai lại nghĩ, đó là công trình kiến trúc nổi tiếng ở tận bên Anh quốc! Phong cảnh Nhật Bản khác xa với những rừng cây của Phần Lan. Còn Kim tự tháp Ai Cập thì làm sao mà có thể lẫn với Angkor ở Campuchia cho được! Nhưng tất cả những cái đó, xét cho cùng, cũng chỉ là để làm nền cho con người (hay nhân vật) của chúng ta tồn tại và phát triển mà thôi. Hơn nữa, điện ảnh, truyền hình cũng giống như hội họa, đều rất biết cách kể chuyện về con người mà không cần có sự xuất hiện của họ. Ví dụ, chỉ cần nhìn thấy hình ảnh một khoảnh rừng bị phát quang, bốc cháy, cây cối ngổn ngang… ta đã có thể hiểu được, sự tàn phá của con người là như thế nào. Hoặc giả, nhìn vào một căn phòng thôi, cũng có thể đoán biết chủ nhân của nó là ai, tính cách như thế nào, chỉ cần thông qua đồ đạc, vật dụng, cách bài trí căn phòng.
Khác với phim truyện, nhân vật trong phim tài liệu thường không phải là diễn viên, trừ khi đó là phim tài liệu chân dung diễn viên, hoặc trong số ít trường hợp sử dụng diễn viên làm người dẫn chuyện. Nói cách khác, phim tài liệu không có đất cho diễn viên thể hiện tài năng; các nhân vật, nhờ sự phát hiện của biên kịch hay đạo diễn, tự mình bước lên màn ảnh. Cực kì hiếm gặp, là việc diễn viên “đóng vai” nhân vật nào đó trong phim tài liệu, nhưng than ôi, đó lại là “giả tài liệu” mất rồi! Mà đây lại là điều tối kị đối với nhóm thể loại phim này.
Tất nhiên, nói đi cũng phải nói lại. Trong rất nhiều phim tài liệu về đề tài lịch sử của nước ngoài, chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh các ông hoàng bà chúa, hiệp sĩ thánh chiến, võ sĩ, v.v. Nhưng tất cả đều được thể hiện, sao cho khán giả cảm nhận rằng, hiện thực có lẽ đã từng như thế, chứ không phải chắc chắn là như thế; hình ảnh tái hiện này chỉ  mang tính chất minh họa mà thôi. Khác hẳn với một vài phim tài liệu của chúng ta, dường như cố tình tìm cách thuyết phục người xem, rằng đó chính là sự thật.
Hình ảnh cần thiết như thế, nên nó mới trở thành phương tiện biểu hiện quan trọng nhất đối với cả điện ảnh và truyền hình. Nhưng sẽ càng thú vị và hấp dẫn hơn, nếu hình ảnh ấy thực sự tiêu biểu, điển hình, gây ấn tượng mạnh mẽ với người xem, và như thế, hình ảnh đã trở thành chi tiết (đôi khi là rất đắt!) trong phim tài liệu; chứa đựng những ý tưởng hay thông điệp nào đó mà các tác giả muốn gửi tới số đông công chúng. Ví dụ như hình ảnh Bác Hồ ngồi trầm ngâm bên cửa sổ nhà sàn trên chiến khu Việt Bắc; hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu trên đường phố Sài Gòn; anh Nguyễn Văn Trỗi bị trói vào cột trước khi xử bắn; bà Nguyễn Thị Bình kí vào Hiệp định Pari; Bin Clintơn tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam v.v.

Hồi 13h45′ ngày 12/11/ 1983 hai liễn gạch của 2 xe ủi đất đá gặp nhau kết thúc thắng lợi lấp Sông Đà đợt 1
Ánh sáng và màu sắc cũng góp phần quan trọng tạo nên hình ảnh trong phim tài liệu, Tùy theo ý đồ sáng tạo của đạo diễn và quay phim mà người ta sử dụng hai yếu tố này sao phù hợp và hiệu quả. Nhưng dễ thấy nhất là trong một số phim tài liệu của Việt Nam, khi các tác giả biến hình ảnh (màu) thành phim đen trắng như một cách khiến người xem cho đó là hình ảnh tư liệu hoặc “thì quá khứ” của nhân vật và sự kiện. Cùng với đó là việc sử dụng góc độ, động tác máy quay và tất cả sẽ hiển thị trước mắt chúng ta qua các cỡ cảnh và khuôn hình với các trường đoạn ngắn, dài.
Phần âm thanh trong phim tài liệu hóa ra lại khá là phức tạp do có những quan niệm trái chiều. Một số tác giả cho rằng “âm thanh” ở trong phim (nói rộng ra, gồm cả điện ảnh và truyền hình) là sự kết hợp của ba yếu tố: lời nói, âm nhạc và tiếng động. Số khác, lại khẳng định đó là những thành phần độc lập, nhiều khi chẳng liên quan gì đến nhau, với những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Chẳng hạn, người ta có thể dùng âm nhạc hoặc tiếng động để làm rõ thêm những ý tự sự hoặc trữ tình, tăng thêm tính kịch… nhưng lời nói của con người thì chưa chắc. Ngược lại, âm nhạc và tiếng động làm sao có thể thay thế đối thoại giữa các nhân vật, trả lời phỏng vấn, trao đổi, tranh luận… góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, làm rõ bối cảnh, không gian, thời gian và cả tính huống trong đó nhân vật đang tồn tại. Tuy nhiên, cho dù “gộp vào” hay “tách ra”, thì cả lời nói, âm nhạc và tiếng động cũng đều trở thành phương tiện biểu hiện quan trọng thứ hai, chỉ đứng sau hình ảnh.
Lời nói trong phim tài liệu thường được hiểu là đối thoại, độc thoại, trả lời phỏng vấn… được sử dụng theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp, tùy từng trường hợp. Bên cạnh đó, còn có lời ngoài hình (hoặc lời nói sau khuôn hình), là dạng lời nói không đi cùng nhân vật đang xuất hiện trên màn ảnh, có chức năng và nhiệm vụ riêng. Đây có thể là lời của nhân vật “ẩn mình” mà cũng có thể của chính tác giả.

Đạo diễn Roman Cacrmen
Lời bình, trong một thời gian khá dài, được gọi là lời thuyết minh, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với bất kì bộ phim tài liệu nào. Nó có nhiệm vụ giới thiệu nhân vật, sự kiện, bối cảnh, không gian, thời gian, ý trữ tình và tự sự; dùng để dẫn chuyện, cho thấy thái độ và lập trường của tác giả cũng như tư tưởng chủ đề của tác phẩm, v.v. Các dữ kiện, dữ liệu, số liệu… cũng có thể được thể hiện qua lời bình. Và việc viết lời bình phim tài liệu có thể do chính đạo diễn đảm nhiệm, nhưng trong rất nhiều trường hợp, nó được giao cho các nhà văn, nhà thơ, biên kịch, v.v., miễn sao họ có đủ trình độ và tri thức cần thiết. Hẳn những người ở lứa tuổi sáu, bảy mươi, đã từng xem Cây tre Việt Nam của các nhà điện ảnh Ba Lan đều không thể nào quên một “thuyết minh” đẹp như thơ do nhà báo, nhà văn Thép Mới viết. Đây thực sự là một áng văn hay, đến nỗi người ta phải đưa vào sách Trích giảng văn học của một thời và nhiều thế hệ học sinh đã học thuộc lòng, mấy chục năm sau vẫn không quên được.
Tiếc là thời gian đã lùi xa, đến độ có người cho rằng đó là bộ phim của các nhà điện ảnh Cu Ba. Làm sao có thể như thế được? Bởi vì mãi đến ngày 01 tháng Giêng năm 1959, chính quyền cộng sản của Phiđen Cátxtrô mới ra đời.  Chẳng lẽ giữa những năm 50 họ đã cử người đến Việt Nam để làm phim? Hay là do chính quyền độc tài Batítxta cử đến?!

Các nhân tố trong Phim tài liệu ( Bài 5)

 
Tác giả chụp ảnh lưu niệm với học viên tại cơ sở Đào tạo – VTV 38 Hồ Tùng Mậu – Thành phố Đà Lạt ( Thứ sáu từ trái sang)
Không giống như phim truyện, đối thoại trong phim tài liệu thường xuất hiện với tần suất thấp hơn, và chỉ dừng lại ở mức độ dự kiến nội dung chứ không được viết sẵn trong kịch bản. Bởi vì vào lúc viết kịch bản để làm phim tài liệu, người ta không thể biết được nhân vật sẽ nói gì, trừ trường hợp sử dụng lại các tư liệu cũ. Hơn nữa, trong quá trình làm phim, ngay cả khi được “mớm lời”, chắc gì các nhân vật đã nói đúng ý đồ tác giả!
Phần đối thoại trong phim tài liệu, trước hết là lời của các nhân vật (phát biểu, trả lời phỏng vấn, trao đổi với nhau…) và câu hỏi của tác giả trong những trường hợp cần thiết. Phần này có ý nghĩa rất quan trọng vì tính xác thực, trực tiếp của nó, không thông qua một trung gian nào khác. Nhờ vậy, những đặc điểm về tâm lí, tính cách và cả những tầng thông tin khác của nhân vật, dù vô tình hay hữu ý cũng trở nên rõ nét hơn.
Nếu như trong văn học và báo in (gần đây thêm báo mạng), đối thoại giữa các nhân vật thường do tác giả tạo ra hay thuật lại, nên người đọc chỉ nắm được nội dung chủ yếu, qua ngôn ngữ và văn phong tác giả (tất nhiên trong đó bao gồm cả các biện pháp tu từ, việc sử dụng phương ngữ, sắp xếp lại nội dung câu nói, v.v.) thì nhờ có phát thanh, chúng ta không những nghe được nội dung mà còn biết nhân vật nói như thế nào qua chất giọng, âm sắc vùng miền, cách nhấn nhá của họ. Còn đối với truyền hình nói chung và phim tài liệu nói riêng, ngoài những điều đã kể trên, khán giả còn dường như được trực tiếp gặp gỡ các nhân vật ấy. Ấn tượng được tăng lên gấp nhiều lần, phải không các bạn?
Nhưng, vẫn tồn tại đâu đó một lời khuyên chung cho những người làm phim tài liệu, là hãy để cho nhân vật nói ít thôi. Bởi vì nếu không cẩn thận, bộ phim sẽ trở thành một thứ sản phẩm của radio (phát thanh) chứ không còn là cinéma (để xem) nữa. Ấy là chưa kể, đôi khi, do chất giọng của từng người, cách phát âm cộng với các từ địa phương mà không phải lúc nào khán giả cũng nghe rõ và hiểu được nhân vật nói gì. Thật tiếc, là bên cạnh những thành công không thể phủ nhận, thìCuộc hội ngộ sau ba mươi năm của Lê Mạnh Thích lại là một bộ phim hơi quá nhiều đối thoại. Ví dụ, cuộc đối thoại giữa o Lai và Rôbinxơn, giữa Rôbinxơn và những người anh ta đã gặp mấy chục năm về trước, giữa o Lai với cô con gái, v.v.

Hai người phi công già của 2 chiến tuyến gặp nhau lần đầu (năm 2008) sau hơn 30 năm xa cách (Nguyễn Hồng Mỹ – ảnh phải).
Lời ngoài hình (còn gọi là lời nói sau khuôn hình), xưa nay được hiểu là lời của những người không có mặt trên màn ảnh vì một lí do nào đó. Chẳng hạn, trên nền của những hình ảnh lao động sản xuất, chiến đấu của quân và dân ta, vang lên lời kêu gọi hào hùng của Bác Hồ: “Chiến tranh có thể kéo dài năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Hiệu quả và tác động của đoạn phim này rõ ràng là rất mạnh. Còn trong một số trường hợp khác, lời ngoài hình lại nhân danh tác giả, nói thẳng với người xem, cũng rất gây ấn tượng. Thủ pháp này từng được sử dụng thành công trong cả phim truyện, như Bài ca người lính, một kiệt tác điện ảnh của Liên bang Xô viết trước đây. Lời của đạo diễn, cố Nghệ sĩ nhân dân Lê Mạnh Thích dùng để kết thúc phim Cuộc hội ngộ sau ba mươi năm cũng vậy.
Cuối cùng, lời trực tiếp là những gì ta nghe được từ người đang nói. Còn lời gián tiếp sẽ được sử dụng khi cần thể hiện một văn bản, hoặc nhân vật nhớ lại một câu nói hay nội dung nào đó. Ví dụ, một cô gái nhận được thư nhà. Giọng bà mẹ từ một miền quê nào đó bỗng vang lên, thể hiện nội dung của bức thư trong khi ánh mắt cô gái lướt qua từng dòng chữ. Hoặc giả, người phụ nữ lật giở từng trang nhật kí ố vàng và mục nát vừa tìm thấy cùng với bộ hài cốt của một người người lính Quân giải phóng. Ngay lập tức chúng ta nghe thấy lời của người đã hi sinh: “Ráng chờ anh, em nhé!” (trong phim Chị Năm “khùng” của Lại Văn Sinh).
 
Âm nhạc, gồm ca khúc và nhạc không lời cũng là một nhân tố không thể thiếu được trong phim tài liệu. Nó góp phần làm rõ tư tưởng chủ đề tác phẩm, tâm lí, tính cách nhân vật, những cung bậc cảm xúc của họ, tăng thêm tính kịch, v.v. Nhưng khác với phim truyện, người ta thường chọn các ca khúc và bản nhạc có sẵn để đưa vào, bởi lẽ chẳng ai dám xài sang, mời nhạc sĩ sáng tác bài hát riêng cho một bộ phim tài liệu trong khi tiền làm phim thời nay cho nhóm thể loại này là rất hẻo. Tất nhiên, tùy từng nội dung mà người ta lựa chọn âm nhạc sao cho phù hợp. Và nếu như đạo diễn không tự mình làm được việc này thì đã có biên tập viên âm nhạc giúp anh ta. Thực tế cho thấy, nhiều bộ phim trở nên hay hơn, hấp dẫn hơn, một phần cũng nhờ âm nhạc. Hoa xương rồng trên cát của đạo diễn, Nghệ sĩ ưu tú Bùi Ngọc Hà chính làm một bộ phim như thế.
Tiếng động cũng là một phương tiện biểu hiện quan trọng mà phim tài liệu không thể bỏ qua. Được tạo nên bởi hai nguồn, tự nhiên và nhân tạo, tiếng động luôn luôn vây bọc, chi phối, tác động đến mỗi chúng ta mọi lúc mọi nơi, từng phút từng giờ. Vậy thì hà cớ gì nó lại không xuất hiện trong phim tài liệu?! Xin hãy đừng quên, dù chỉ một tiếng động thôi, nếu được dùng đúng chỗ, có khi còn hơn cả những hình ảnh vô nghĩa, dài dòng. Chẳng hạn như bộ phim Nụ cười thành cổ của đạo diễn Trần Minh Đại. Hình ảnh lúc tĩnh, lúc động, lúc là tư liệu, lúc là những gì mới được ghi hình. Nhưng trên nền của những hình ảnh đó, chúng ta nghe thấy tiếng bom rơi, đạn nổ, pháo gầm… xé toang không khí. Vậy mà không ai thấy vô lí một chút nào! Người ta gọi đây là phương pháp chủ quan – sử dụng tiếng động theo ý đồ sáng tạo của nhà nghệ sĩ. Còn khách quan ư? Đi trên đường phố, phải có tiếng ồn. Ô tô chạy qua, nghe máy nổ. Sóng biển đập vào bờ đá, thấy ầm ào… Đâu phải lúc nào sự “khách quan, trung thực” này cũng đều đem lại hiệu quả nghệ thuật như mong muốn! Thảng hoặc, có cả những phim từ chối luôn mọi thứ tiếng động mà vẫn cứ hay, như Hoa xương rồng trên cát.

Phần phụ đề được hiểu là toàn bộ những câu chữ được bắn vào phim (trừ bảng tên phim và những người làm phim – générique). Có tác dụng giới thiệu nhân vật, không gian, thời gian, tạo ra bước chuyển trong hành động của các nhân vật… những câu chữ này còn có thể được sử dụng thay cho lời bình hoặc thuyết minh. Mặt khác, nó cũng có thể giúp người khiếm thính đọc được và hiểu nội dung phim. Yêu cầu chung của phần phụ đề là phải ngắn gọn, súc tích và đầy đủ những thông tin cần thiết. Nếu không, nó sẽ choán hết cả chỗ trên màn ảnh, và người xem chưa kịp đọc hết thì đã sang cảnh khác mất rồi. Phụ đề cũng cho biết nguồn gốc, xuất xứ của tư liệu trong các trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo tính khách quan, chân thực, tránh sự hiểu lầm hoặc suy diễn, v.v. Phần này thường luôn luôn đi cùng hình ảnh và chỉ được đưa vào sau khi phim đã hoàn thành.
Lời bạt (hoặc vĩ thanh) được dùng trong khá nhiều phim tài liệu với mục đích kết thúc trọn vẹn một vấn đề; thể hiện thái độ, mong muốn của tác giả hoặc nhân vật; tạo ra sự liên tưởng cần thiết nào đó; làm rõ thêm những ý mà các biện pháp khác không thể hiện hết được. Trong một số trường hợp, có thể chỉ đơn giản là vì tác giả không muốn trình bày một nội dung nào đó bằng hình ảnh. Lời bạt thường được trình bày dưới dạng màn chữ, lời của nhân vật hoặc tác giả và đôi khi, là cả lời bình. Hơi khó sử dụng, nhưng nếu thành công, sẽ đem lại hiệu quả rất mạnh và sâu cho khán giả. Phần màn chữ thể hiện nội dung trích dẫn lời của Mác trong bộ phim Chuyện tử tế của Trần Văn Thủy chính là một ví dụ cho “lời bạt” kiểu này.

Các bước sáng tác phim tài liệu ( Bài 6)

 
Nhà biên kịch Nguyễn Hậu và sinh viên sau lễ bảo vệ luận văn tốt nghiệp tai Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Để có thể làm ra được một bộ phim tài liệu, người ta thường phải trải qua các công đoạn khác nhau, gồm viết kịch bản, tổ chức làm phim, ghi hình (còn gọi là tiền kì); hậu kì, duyệt tác phẩm rồi cuối cùng mới là trình chiếu hay phát sóng.
Viết kịch bản là công việc đầu tiên, vô cùng quan trọng, vì bộ phim nào cũng đều bắt đầu từ kịch bản. Nói cách khác, chưa có kịch bản thì không ai có thể bắt tay vào làm phim, cho dù kịch bản ấy được viết thế nào đi chăng nữa. Nhưng cũng dễ nhận thấy, một kịch bản hay thường góp phần cho sự ra đời của bộ phim hay và ngược lại. Khó có ai lại tin rằng kịch bản dở sẽ đẻ ra một bộ phim xuất sắc, trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi, đặc biệt trong trường hợp người ta muốn đề cao tài năng của người đạo diễn.
Kịch bản quan trọng là vậy, nhưng tác giả của nó lại dường như không dính dáng gì đến quá trình ghi hình và thực hiện bộ phim. Bởi lẽ, ngay sau khi kịch bản được thông qua để đưa vào sản xuất, người viết đã mặc nhiên chấm dứt vai trò của họ, trừ phi anh ta (hay chị ta) được mời viết lời bình sau khi phim đã dựng xong. Tất nhiên, ai cũng có thể viết được kịch bản phim tài liệu: nhà văn, nhà báo, nhà giáo, sinh viên…, miễn sao từ văn bản ấy, người ta thấy có thể làm phim được. Nhưng trong thực tế thì phần lớn kịch bản phim tài liệu đều do các đạo diễn điện ảnh hoặc truyền hình tự viết lấy. Lí do? Họ là những người từng trải, lăn lộn trong cuộc sống, mỗi khi phát hiện một vấn đề nào đó đáng để làm phim là ngay lập tức xắn tay áo lên, sẵn sàng xung trận. Mời người khác viết, e là nó “nguội” đi mất, mà chắc gì đã đúng ý mình! Chính vì thế mà phim tài liệu xứng đáng được gọi là phim tác giả.
Vậy thì viết kịch bản phim tài liệu có khó không? Câu trả lời: khó dễ tùy người. Dù sao, cũng có thể chia quá trình này thành ba bước khác nhau, là làm đề cương sơ lược, đề cương chi tiết và kịch bản hoàn chỉnh, cho dù chẳng ai bị bắt buộc phải qua đủ ba phần việc ấy. Trái lại, rất nhiều người không cần đếm xỉa gì đến cái gọi là đề cương nói chung, mà cứ thế “phang” kịch bản luôn, còn các biên tập viên thì sẵn sàng đọc ngay kịch bản.
Đề cương sơ lược, xét cho cùng, là một bản “đăng kí đề tài”, trong đó chỉ cần đưa ra ý tưởng, đề tài và cách thức làm phim. Nó giúp cho các cơ quan quản lí, điều hành và biên tập viên có những nhận xét cần thiết và sàng lọc bước đầu, dựa trên cơ sở những yêu cầu về nhiệm vụ chính trị, công tác thông tin tuyên truyền, tính khả thi của bộ phim. Dung lượng của đề cương sơ lược thường chỉ cần từ 1 đến 2 trang A4, cỡ chữ 14.
Đề cương chi tiết là bước cụ thể hóa đề cương sơ lược (hoặc không, nếu người ta bỏ qua bước ấy). Với độ dài khoảng 3-4 trang đánh máy vi tính hoặc dài hơn một chút, đây là bước triển khai câu chuyện, cốt truyện với các nhân vật chính, sự kiện và những vấn đề có liên quan; địa điểm ghi hình, phương pháp thực hiện cũng như nội dung chủ yếu của từng đoạn và trường đoạn. Cùng với đó là phong cách, thể loại và tư tưởng chủ đề của bộ phim.
Kịch bản phim tài liệu là một văn bản hoàn chỉnh, khoảng từ 10 đến 12 trang, hiếm khi dài hơn, nhưng như vậy cũng đủ để làm thành một bộ phim có thời lượng từ 25 đến 30 phút. Không phải là một tác phẩm văn chương hay “bộ phim trên giấy” nhưng kịch bản chí ít cũng giúp cho người đọc hình dung được những gì sẽ diễn ra trong phim, bao gồm cả hình ảnh và lời bình dự kiến, các thủ pháp kĩ thuật và nghệ thuật; việc sử dụng tư liệu và tài liệu; các cuộc phỏng vấn và phát biểu, v.v. Tuy nhiên, đây mới chỉ là dự kiến, vì chắc chắn đến khi thực hiện, vì cả lí do khách quan và chủ quan mà mọi thứ đều có thể thay đổi rất nhiều. Giả dụ, trong kịch bản ghi cảnh nông dân đang gặt lúa trên cánh đồng. Nhưng lỡ chẳng may, khi đoàn làm phim về đến nơi thì việc thu hoạch đã xong. Lại nữa, định quay cảnh trời nắng, nhưng cả tuần lễ liền bị mưa thì biết làm thế nào? Chắc chắn người ta sẽ phải tìm cách khác, thực hiện những cảnh quay khác nhưng vẫn thể hiện được những ý tứ cần thiết trong kịch bản.
Tuy nhiên, do những đặc thù của nó, nên ngay cả khi kịch bản đã được thông qua, thì cũng không ai cầm nó mà đi làm phim được. Còn phải qua một công đoạn nữa, mở đầu giai đoạn tiền kì, là làm kịch bản phân cảnh, trong đó cụ thể hóa đến từng cỡ cảnh, khuôn hình, động tác máy quay, thời lượng, v.v. Đây cũng được coi là bước sáng tạo và khả năng ứng biến của anh ta. Dựa trên cơ sở kịch bản này, người ta mới có thể đưa ra được tổng dự toán của bộ phim, những yêu cầu về máy móc, phương tiện và cả “diễn viên quần chúng” nếu cần. Điều này không hề mâu thuẫn khi đạo diễn tự viết lấy kịch bản phim, vì như vậy, tức là anh ta đã đảm nhiệm vai trò của nhà biên kịch. Còn “diễn viên quần chúng” xin hãy hiểu là đám đông có mặt trong một số cảnh quay nào đó. Một ví dụ đơn giản: luyện tập ngoài thao trường là công việc thường xuyên của những người lính. Nhưng muốn có được một cảnh quay đạt yêu cầu, dứt khoát phải có sự chuẩn bị trước về mọi mặt, từ huy động nhân sự, vũ khí, khí tài… đến hoạt động của cả một đơn vị.

Nhà biên kịch Nguyễn Hậu tại mũi Cà Mau
Sự vất vả của đạo diễn trong lúc làm kịch bản phân cảnh thật chẳng thấm vào đâu so với cả quá trình thực hiện cảnh quay ở hiện trường, tổ chức các cuộc phỏng vấn, tìm kiếm tư liệu, tài liệu và cả việc quay bổ sung ở một vài trường hợp. Nhưng đây cũng lại là một thứ “lửa thử vàng”, qua đó bộc lộ khả năng tổ chức, lãnh đạo điều hành, tư duy khoa học và năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ. Sẽ không phải quá lời, nếu ai đó cho rằng chỉ thiếu một trong những yếu tố trên, bộ phim cũng khó mà thành công được. Và tất cả những công việc này, đạo diễn đều phải tự mình làm lấy, không thể giao phó cho ai. Bởi vì, ở các đoàn làm phim tài liệu, không bao giờ có “thư kí trường quay” hay “phó đạo diễn”, ngay cả với phim nhiều tập. Mặt khác, chỉ có chính đạo diễn của bộ phim mới biết rõ mình cần cái gì và làm như thế nào để đạt được hiệu quả đến mức tối đa cho tác phẩm.
Tất nhiên, nguyên tắc là thế, nhưng không phải ai cũng làm kịch bản phân cảnh trước khi bấm máy một bộ phim tài liệu. Ngại mất thì giờ cũng có. Đổ tại lí do khách quan cũng có. Vì vậy, nhiều người chỉ làm quấy quá cho xong hoặc trình ra vài trang dự kiến cảnh quay, công việc… là được.
Khâu cuối cùng trong quy trình sáng tạo một bộ phim, giai đoạn hậu kì bao gồm những việc rất quan trọng còn lại, như sơ dựng, viết và đọc lời bình, chọn nhạc, hòa âm, bắn chữ và… trình duyệt. Lúc nào đạo diễn (may mắn lắm mới có thêm biên tập viên ngồi cạnh) phải xem lại tất cả những hình ảnh đã ghi được; chọn lựa, sắp xếp lại theo trình tự đã ghi trong kịch bản phân cảnh hoặc kịch bản dựng, sao cho phù hợp với nội dung cần thể hiện; kiểm tra thời lượng xem đã ổn chưa. Nếu dài, phải cắt bớt. Ngược lại, sẽ thêm vào. Nhưng đến khi ngồi vào bàn dựng, rất có thể mười phần chỉ giữ lại chưa được một, dù rất tiếc. Đơn giản là, theo quy định, nếu một bộ phim có thời lượng ba mươi phút, đạo diễn sẽ chẳng thế nào kéo nó dài đến ba mươi lăm hay bốn mươi!
Qua bước sơ dựng, nếu là phim nhựa, người ta sẽ có bản đầu, để từ đó in ra các bản khác, như “đúp nê” và “đúp pô”. Còn với băng từ vidéo và kĩ thuật số, việc “nhân bản” dễ dàng và thuận lợi hơn nhiều. Dù sao, chỉ sau khi đã dựng xong, tức là ráp nối mọi cảnh quay thành một bộ phim hoàn chỉnh, người ta mới viết lời bình và tìm một giọng đọc nào đó cho phù hợp. Vừa phải bám sát nội dung hình ảnh, lại vừa phải làm rõ hoặc bổ sung ý tứ và số liệu, dữ liệu, lại luôn luôn bị cắt ngang bởi đủ các lời lẽ của nhân vật chen vào hoặc cảnh quay quá ngắn… Viết lời bình quả là không dễ, nhất là khi thời gian quá gấp.
Với sự trợ giúp của biên tập viên âm nhạc, đạo diễn sẽ chọn và đưa ca khúc cũng như nhạc không lời vào phim cùng với những tiếng động khác nhau, âm lượng to nhỏ khác nhau. Công việc này được gọi là hòa âm, và không có nó là không được. Cuối cùng, mới là phần chữ. Từ tên phim, phụ đề, lời bạt, đến cảm ơn… Tuy vậy, không phải ai cũng làm như thế. Mười ông (và bà) đạo diễn chắc chắn là sẽ có mười cách làm khác nhau. Cá biệt, có người còn viết và đọc lời bình trước khi dựng nữa kia. Nhưng thôi, đó lại là một chuyện khác mất rồi…

Nguyễn Hậu

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review