Xử lý tạo hình trong dựng phim (Bài 5)
VTVTC: Website daotao.vtv.vn đi vào hoạt động từ 12/4/2013. Điều làm chúng tôi rất vui là những thông tin phản hồi tích cực từ các đồng nghiệp trong cả nước. Hơn thế, nhiều đồng nghiệp còn sẵn sàng chia sẻ với daotao.vtv.vn những kiến thức, kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình làm nghề và học tập.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết thứ năm ” Xử lý tạo hình trong dựng phim” của Thạc sĩ Bùi Thái Dương- Trưởng phòng Đạo diễn và Quay phim – Ban Thể thao – Giải trí và Thông tin kinh tế- Đài truyền hình Việt Nam.
Nếu như văn học là sự sắp đặt ngôn từ một cách nghệ thuật để tạo nên tác phẩm thì điện ảnh là sự sắp đặt các hình ảnh một cách nghệ thuật. Tác phẩm điện ảnh là sự kết hợp của nhiều yếu tố: kịch bản, đạo diễn, máy quay, âm nhạc, ánh sáng, diễn xuất, dàn dựng. Trong đó đạo diễn đóng vai trò tổ chức, dàn dựng, diễn viên có vai trò tái tạo và truyền tải nội dung tư tưởng và chủ đề của tác phẩm điện ảnh. Cấu trúc của tác phẩm nghệ thuật điện ảnh lệ thuộc vào nghệ thuật dựng phim khi xét nó từ quá trình kịch bản văn học sang kịch bản phim, kịch bản phân cảnh đến dựng phim đó là cả một quá trình sáng tạo thể hiện ý đồ của đạo diễn trong việc tạo ra tác phẩm điện ảnh.
Dựng phim bao gồm hai công đoạn được tiến hành song song, tạo ra tính liên tục bằng việc tổ chức các hình ảnh sao cho câu chuyện có ý nghĩa đồng thời tạo ra các hiệu quả phụ, gây ngạc nhiên bằng việc ráp nối những hình ảnh này và thông qua đó tạo cho tổng thể những hình ảnh mà ta sắp xếp có nhịp điệu, có sức sống.
Thông qua dựng phim chúng ta có thể chia câu chuyện thành nhiều phần lớn, với phần mở đầu, phần giữa và phần kết. Nhờ đó chúng ta có thể giới thiệu địa điểm nhân vật, có những yếu tố mang tính chất xung đột, những diễn biến, giải pháp cho những xung đột. Nhờ dựng phim ta có thể đi từ thời gian thực tế sang thời gian điện ảnh, nơi mà cả cuộc đời người có thể được gói gọn chỉ trong 90 phút.
Có thể nói dựng phim là cha đẻ thứ hai của bộ phim. Vì vậy đạo diễn và người dựng phim cần phải cẩn thận, kiên nhẫn, có độ quan sát tốt, tinh tế trong hiểu biết chuyên môn, có tầm nhìn (cả ánh sáng, âm thanh, âm nhạc…) để luôn tạo cảm xúc đồng thời ghi chú rõ về âm thanh (cần quay đồng bộ) về ngày tháng trong từng cảnh và lần quay.
Sự chuẩn bị tốt các khâu trên sẽ giúp người dựng thực hiện tốt các bước tiếp theo như : Sự kết nối hợp lý hai cảnh liền nhau; Phạm vi thay đổi kích cỡ hình ảnh và góc độ máy; Duy trì khả năng định hướng; Duy trì tính liên tục bền vững; Phù hợp ánh sáng và sắc độ; Tạo chuỗi âm thanh qua một cảnh cắt xác định thời gian, nhịp độ, nhịp điệu. Sự tinh tế xuyên suốt của thủ pháp dựng phim là cân bằng các trạng thái cảm xúc của diễn viên, lời thoại, âm thanh, hình ảnh chắc chắn góp phần sẽ mang lại sự hấp dẫn cho bộ phim.
Các thủ pháp dựng phim
Ý đồ của đạo diễn trong việc sắp xếp các cỡ cảnh: Toàn, trung, cận, đặc tả…hoặc các cảnh có động tác máy tương quan (hoặc khác nhau) cũng tạo ra những hiệu quả đặc biệt về thị giác cho người xem. Công tác dựng phim không chỉ “ là linh hồn, là trái tim” của nghệ thuật điện ảnh, mà nó còn tác động mạnh đến với tư duy người xem qua sự tiếp xúc thị giác bằng việc sắp xếp các khuôn hình.
Trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên báo Thế giới điện ảnh, chuyên gia dựng phim nổi tiếng người Mỹ Folmer Martin Wiesinger đã chia sẻ thủ pháp để tạo ngôn ngữ điện ảnh hình thành nét đặc trưng rất riêng của ông là “sự phá cách ( triệt để nhất với cấu trúc thời gian truyền thông ); Sự chính xác, thứ tự của các cảnh quay cùng âm thanh, ánh sáng, tiếng động. Cần biến đổi hình ảnh hóa bằng những phương pháp ẩn dụ và ngôn ngữ tượng trưng trong tất cả các miêu tả. Cấu trúc lẻ phim là hình ảnh của tâm lý, kịch tính, thay đổi theo sự thăng trầm của tâm lý nhân vật, áp dụng kỹ thuật giữ khoảng cách, sử dụng ống kính, góc máy thay đổi nhưng hợp lý, động tác máy luôn di động theo câu chuyện. Đó là những nét chấm phá hay một hình thức thể hiện ngôn ngữ điện ảnh rất cần khi dựng phim”.
Trong điện ảnh có không ít hơn ba trào lưu nổi lên từ thập kỷ 20 là Chủ nghĩa ấn tượng-Làn sóng mới của Pháp, chủ nghĩa biểu hiện Đức, montage Xô viết (Montage kể chuyện, montage biểu hiện, montage song hành, mongtage ẩn dụ và montage trong ống kính).
Alfred Hitckock là đạo diễn nổi tiếng đi theo truyền thống của chủ nghĩa ấn tượng Pháp, với sự chính xác trong việc đặt máy quay, kết cấu khuôn hình đạt hiệu quả đặc biệt, chuyển động máy quay để truyền tải những gì nhân vật thấy và suy nghĩ. Tính chủ quan của nhân vật là yếu tố mẫu cho việc kể chuyện trong thời gian dài.
Trường phái biểu hiện Đức thường dùng những yếu tố huyền thoại siêu nhiên để làm biến dạng khuôn mẫu chung của phim với kỹ thuật dựng cảnh như đồ họa, diễn xuất của diễn viên cũng như một nhân tố thị giác, được phóng đại một cách có chủ ý, ánh sáng tương phản với những bố cục phức tạp. Những kỹ thuật đặc biệt này ảnh hưởng rõ rết đến những bộ phim có yếu tố ly kỳ rùng rợn của điện ảnh sau này.
Trào lưu montage Xô viết nổi tiếng với cách dựng mới. Đạo diễn Nga Kulesov đã ca ngợi lối kể chuyện súc tích của phim Mỹ, với quan niệm về montage chủ yếu là những kỹ thuật biên tập để gây hiệu quả về mặt tình cảm trong khi đạo diễn Nga Vertov thì cho rằng montage không chỉ là thủ pháp kỹ thuật đơn lẻ mà là cả một quá trình sản xuất từ việc chọn đề tài, quay phim, dựng phim . Đạo diễn Nga S. Eiseinstiene với quan niệm cảnh quay dù thế nào đi nữa cũng là yếu tố của montage-nhờ có sự xung đột của hai cảnh đối lập nhau. Những nét đặc trưng làm nổi bật phong cách montage là ở việc dựng phim trong khi muc đích của việc dựng phim liên tục là tạo ra ảo giác về dòng chảy phẳng lặng của thời gian trong cảnh quay, việc cắt cảnh của trường phái montage đã tạo qua quan hệ chồng chéo hoặc bị tỉnh lược về thời gian [Ngôn ngữ điện ảnh].
Hiệu quả của các thủ pháp dựng phim
Đạo diễn Nhật Bản Akira Kurosawa là người có công rất lớn khi nghĩ ra phương pháp dựng phim bằng cách cho các cảnh hồi tưởng đan xen với nhau về một sự việc. Kỹ thuật dựng phim này đã được vô số phim truyện, những tác phẩm kinh điển sau đó sử dụng lại, thậm chí nó còn được đưa vào giáo trình học của các trường lớp đào tạo đạo diễn chuyên nghiệp ở phương Tây. Thủ pháp này đã được ông sử dụng trong phim Rashomon-phim đầu tiên của châu Á đoạt giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất, (1951).
Ngay lúc mới ra đời, bộ phim Rashomon đã trở thành “đứa con lạc loài” của điện ảnh Nhật Bản, bị khán giả quê nhà ngoảnh mặt làm ngơ, sau đó có một phái đoàn điện ảnh người Ý tình cờ phát hiện bộ phim bị “bỏ rơi” này và mang ra giới thiệu với khán giả thế giới. Khi trình chiếu trên màn ảnh quốc tế, Rashomon đã trở thành người “anh hùng danh dự” của xứ sở Hoa anh đào, được các nhà phê bình điện ảnh thế giới đánh giá là kiệt tác của điện ảnh nhân loại, nó khiến cả thế giới phải thay đổi cái nhìn về người Nhật, họ không hẳn chỉ là những kẻ hiếu chiến, ngang tàng mà họ cũng có khả năng cảm thụ sâu sắc về nghệ thuật, lòng nhân bản, để tạo ra một tuyệt tác được lưu trong danh mục “Những bộ phim hay nhất mọi thời đại”. Đã hơn 60 năm trôi qua, sở dĩ Rashomon vẫn được nhắc đến và được dùng hai chữ “kiệt tác” để hình dung, là vì bước đột phá về cách kể chuyện cũng như những cống hiến của nó về kỹ thuật, nghệ thuật cho nghệ thuật thứ bảy còn tồn tại mãi đến ngày nay.
Cảnh trong phim chiến hạm Potemkin
Hay như ở trong phim Nga Chiến hạm Potemkin, ở cảnh quay người thủy thủ tức giận đập vỡ một cái đĩa, cử chỉ này lẽ ra chỉ diễn ra trong khoảnh khắc những đã được kéo ra tới 10 cảnh cực ngắn liên tiếp. Phương pháp thời gian chồng nhau này đã giúp nhấn mạnh hành động nổi dậy đầu tiên của cuộc binh biến. Những cảnh quay phim theo trường phái Montage đã tránh dùng các khuôn hình có độ cao đến ngực, sử dụng những góc quay linh hoạt hơn, quay thẳng theo quy ước. Khuôn hình ngược với góc thấp đặt các ngôi nhà hoặc người ngược với bầu trời làm cho diễn viên như bị đe dọa, hoặc biểu lộ sự dũng cảm. Lấy khuôn hình nghiêng hoặc lệch trọng tâm làm cho cảnh quay linh hoạt hơn, ưa thích việc đặt đường chân trời thật thấp trong khuôn hình, ánh sáng tương phản mạnh
Bên cạnh đó, kỹ xảo là yếu tố hấp dẫn, tạo hiệu quả về mặt tạo hình trong phim truyện. Thể hiện ánh mắt và cử chỉ của Caesar kết hợp với hiệu ứng kỹ xảo máy tính diễn xuất của Andy trong Rise of The Planet of The Apes (Sự nổi dậy của loài khỉ, bộ phim khoa học viễn tưởng của đạo diễn Rupert Wyatt) đã làm lu mờ cả nam chính James Franco. Khán giả dường như bị cuốn hút bởi những chú tinh tinh, đặc biệt là Caesar, hơn là tình cảm giữa nhà khoa học trẻ Will Rodman với cha, hay với nữ bác sĩ xinh đẹp Caroline (Freida Pinto thủ vai). Từ ánh mắt sâu thẳm cho tới những cử chỉ lúc sợ sệt, nhút nhát, lúc lại hoang dã, dữ tợn của Caesar qua diễn xuất của Andy Serkis có thể nói đã chạm tới được cảm xúc của người xem. Nhóm thực hiện kỹ xảo cho Rise of The Planet of The Apes chính là êkíp từng đạt giải Oscar với Avatar và The Lord of The Rings. Bằng kỹ thuật CGI (Computer Generated Image), các nhà làm phim đã thổi hồn cho những chú tinh tinh và tạo cho chúng một sự linh hoạt, sống động như khỉ thật trên màn ảnh rộng. Các góc máy chuyển động theo từng cú leo trèo, bước nhảy của các nhân vật này cũng rất linh động mà không tạo cho người xem cảm giác chóng mặt.
Bùi Thái Dương – VTV
0 nhận xét:
Đăng nhận xét