THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

Xử lý tạo hình trong phim truyện Điện ảnh Việt Nam từ năm 2000 đến nay (1)

Xử lý tạo hình trong phim truyện Điện ảnh Việt Nam từ năm 2000 đến nay (1)

VTVTC: Website daotao.vtv.vn đi vào hoạt động từ 12/4/2013. Điều làm chúng tôi rất vui là những thông tin phản hồi tích cực từ các đồng nghiệp trong cả nước. Hơn thế, nhiều đồng nghiệp còn sẵn sàng chia sẻ với daotao.vtv.vn những kiến thức, kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình làm nghề và học tập.
Xin trân trọng giới thiệu một phần luận văn thạc sĩ nghệ thuật Điện ảnh của Thạc sĩ Bùi Thái Dương- Trưởng phòng Đạo diễn và quay phim – Ban Thể thao – Giải trí và Thông tin kinh tế- Đài truyền hình Việt Nam.

Thạc sĩ Bùi Thái Dương
Đây là thời kỳ có những thay đổi lớn, bắt đầu từ Đại hội Đảng VI năm 1986 với chính sách mở cửa cho một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xã hội Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới, cả nước chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang chế độ kinh tế tự hoạch toán theo cơ chế thị trường có sự chỉ đạo của nhà nước.
Nhà nước cắt giảm nguồn kinh phí làm phim, Điện ảnh Việt Nam lâm vào thời kỳ khủng hoảng do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Đó là sự bất cập của cơ chế, lạc hậu về công nghệ và sự ra đời của hàng loạt loại hình giải trí khác. Bên cạnh đó trong cơ chế thị trường, khi mà nhà nước không còn độc quyền trong sản xuất phim thì các hãng tư nhân đua nhau làm phim. Từ năm 1989 nở rộ những bộ phim theo xu hướng thị trường ít có giá trị thẩm mỹ, kém chất lượng, thiếu sáng tạo ở tất cả các khâu, từ kịch bản, đạo diễn, diễn xuất, quay phim đến chất lượng kỹ thuật hậu kỳ. Về mặt tạo hình, chưa có những phim có hình ảnh đậm nét biểu cảm, có phong cách riêng, từ dàn dựng hiện trường cho đến tình huống, đạo cụ, phục trang, hóa trang, diễn xuất của diễn viên. Sự dễ dãi cẩu thả, làm phim theo kiểu chụp giật đã biến nghệ thuật điện ảnh trong thời kỳ này mang tính nghiệp dư  và tính sáng tạo trong nghệ thuật bị xem nhẹ.
Chính vì vậy mà số lượng những bộ phim điện ảnh được sản xuất rất ít và không thu hút được khán giả. Trong khi đó số lượng máy video nhập vào Việt Nam tăng nhanh, phim video đơn giản, không đòi hỏi đầu tư lớn nên nhiều hãng phim quay sang sử dụng chất liệu này vì với các phim sản xuất theo kiểu “mì ăn liền”  được sản xuất trong một thời gian ngắn lại nhanh chóng thu hồi vốn. 
Trong giai đoạn đầu, các nhà làm phim mì ăn liền sử dụng các câu truyện cổ tích, dân gian như Thạch SanhPhạm Công – Cúc Hoa… Thời kỳ tiếp theo, nhiều bộ phim dã sử kiếm hiệp như Tráng sĩ Bồ ĐềThăng Long đệ nhất kiếmLửa cháy thành Đại La… được sản xuất theo mẫu các phim võ thuật Hồng Kông. Thời kỳ cuối cùng, cũng là giai đoạn mạnh mẽ nhất, các phim mì ăn liền khai thác nhưng câu chuyện tình bi lụy, sướt mướt như Sau những giấc mơ hồngEm không dối lừa,Sau cơn mưa trời lại sángTóc gió thôi baySao em vội lấy chồng… hệ quả là dòng phim thị trường này sa sút vào năm 1993 và người xem quay lưng lại với phim Việt Nam.
Có thể nói Điện ảnh Việt Nam từ 1986 đến 2000 thiếu những bộ phim có tính tư tưởng sâu sắc, giá trị nhân văn cao và nhân vật trong phim chưa phải là những hình mẫu nhân vật của thời đại, đáp ứng được đòi hỏi của xã hội mang đến cho công chúng những nhân vật tạo ấn tượng mạnh, ám ảnh người xem [16] như thời vinh quang của điện ảnh Việt Nam vào thời kỳ 1959 đến 1965 hay thời kỳ sau đại thắng mùa xuân 1975. Các tác phẩm điện ảnh Việt Nam trong hai thời kỳ này là những tác phẩm phục vụ nhân dân, hoàn toàn không có tính thương mại và là nguồn động lực tinh thần lớn trong xã hội giúp người Việt Nam vượt qua những gian khổ của cuộc chiến. Những tác phẩm điện ảnh thời kỳ này đạt được nhiều thành công vang dội, được bạn bè thế giới ngưỡng mộ, ngợi khen và dễ dàng nhận ra “….Việt Nam là một đất nước có bối cảnh lịch sử đầy biến động, có hoàn cảnh xã hội sôi động do những cuộc đụng đầu lịch sử tạo ra, nên đời sống nhân dân rất phong phú, đa dạng đầy rẫy những chất liệu hấp dẫn cho văn học nghệ thuật khai thác, đặc biệt là cho điện ảnh…”.
Mặt bằng chung là vậy nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng điện ảnh Việt Nam từ 1986 đến 2000 cũng có một vài phim có chất lượng như phim Đêm hội Long Trì sản xuất năm 1989 do cố NSND Hải Ninh đạo diễn được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết lịch sử cùng tên của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã thực sự tạo nên một ấn tượng mạnh về dòng phimlịch sử Việt Nam.
Hay như phim Vị đắng tình yêu cũng là bộ phim đánh giá cao, đạt giá trị cả về doanh thu lẫn nội dung nghệ thuật [49].
Điện ảnh phim truyện Việt Nam từ năm 2000 đến nay
          Trong thời kỳ mở cửa và hội nhập như hiện nay, các tác phẩm điện ảnh cũng phải chuyển biến theo hướng có thể hội nhập mà vẫn giữ bản sắc riêng của mình. Tuy rằng hiện nay theo quy luật của kinh tế thị trường, đòi hỏi các nhà điện ảnh có những chuyển biến cơ bản về những quan niệm quen thuộc để phát triển và cạnh tranh với phim ngoại. Chính sự cạnh tranh sẽ tạo động lực thúc đẩy điện ảnh Việt Nam phát triển, để phim điện ảnh Việt Nam hấp dẫn hơn, thu hút khán giả hơn. Để làm được điều đó đòi hỏi các nhà điện ảnh phải tìm ra cái mới trong cách kể chuyện phim, cách tạo hình trong phim và ở đó đạo diễn là người tổng chỉ huy để tận dụng tối đa ngôn ngữ tạo hình, khả năng diễn xuất của diễn viên cũng như xử lý những phương tiện tổng hợp của nghệ thuật điện ảnh.
          Những năm 2000 trở lại đây, phim truyện điện ảnh Việt Nam cũng có khá nhiều bộ phim thành công về mặt tạo hình. Có thể kể đến những tên phim đại diện như Biđừng sợ (đạo diễn Phan Đăng Di), Sống trong sợ hãi (đạo diễn Bùi Thạc Chuyên), Áo lụa Hà Đông (đạo diễn Lưu Huỳnh), Thiên mệnh anh hùng (đạo diễn Victor Vũ) và nhiều bộ phim khác nữa.
Phim Biđừng sợ của đạo diễn Phan Đăng Di từng giành giải Dự án châu Á nổi bật tại LHP Quốc tế Pusan 2007, được lựa chọn tham dự hoạt động L’Atelier của Quỹ điện ảnh (Cinefondation) do LHP Cannes tổ chức. Các giải thưởng quốc tế tại nhiều LHP danh tiếng như Cannes (Pháp), Stockholm (Thụy Điển) càng khiến dư luận tò mò về Bi ơi, đừng sợ và đặt ra câu hỏi rằng yếu tố nào đã giúp cho bộ phim đầu tay của một đạo diễn trẻ gây được tiếng vang tại nước ngoài? Mỗi người xem sẽ tự tìm thấy câu trả lời cho riêng mình sau khi trải nghiệm nỗi đau từ những viên đá lạnh buốt.
         Sau gần một năm tham dự các LHP quốc tế, hành trình của Bi, đng s đã trọn vẹn khi ra mắt khán giả trong nước. Sau ba ngày công chiếu, phim thu hút
hơn 3000 lượt khách tới thưởng thức. Đây là một con số ấn tượng đối với phim điện ảnh Việt Nam hiện nay.
Bi, đừng sợ tạo ấn tượng với người xem ở bối cảnh phim Hà Nội từ những góc nhìn giản dị nhưng đầy mới lạ. Khán giả sẽ không thấy Hà Nội trong Bi ơi đừng sợ với hình ảnh Hồ Gươm quen huộc mà thay vào đó là những quán bia đông đúc, xô bồ nơi gầm cầu, những đứa trẻ đứng tựa vào tường tận hưởng que kem mát lạnh trong một buổi tối oi bức mùa hè, những bờ lau bên sông Hồng và cây cầu Long Biên… Bấy nhiêu đó đủ để tạo nên những dư vị ngọt ngào nhất, thân quen nhất về mùa hè Hà Nội đối với những ai từng trải nghiệm nó.  Hình ảnh trong phim được bố cục gần như hoàn mỹ, như những bức tranh. Một toàn cảnh khu nhà rêu đen xám, với ban công chòi ra ngoài, nơi nhân vật bố Bi đứng gần như bất động. Một toàn cảnh lối đi nối giữa hai khu tập thể ở tiệm gội đầu thư giãn, nơi nhân vật Bố Bi và cô gái gội đầu đi xuống từ bên phải sang bên trái màn hình. Cũng hai người ấy trong một trung cảnh, vừa thổi bóng bay vừa giễu lại lời chào mời với nhau, ánh sáng xanh hắt vào từ khung cửa sổ, máy hất chéo từ một góc. Có rất nhiều hình ảnh có sức ám ảnh sâu vào trí nhớ người xem như thế trong Bi, đừng sợ! Đặc biệt, cách chọn tông màu xanh lá cây xuyên suốt toàn bộ phim làm toát lên sự lạnh lẽo, sự thiếu từng trải, sự bị động, và sự hiện hữu bao trùm của tính Âm. Nấp trong vỏ bọc của màu sắc ấy, lý trí và tình cảm được che chắn, nhưng cũng đầy bất an, chỉ đợi những dịp có sự xuất hiện của màu đỏ, để sự bung phá có thể diễn ra ngay lập tức, như quả táo đỏ được đẩy lên mang tính biểu tượng trong nhiều tình huống.

Diễn viên Trương Ngọc Ánh
Thiên mệnh anh hùng  (đạo diễn Victor Vũ) là phim khá thành công trong tạo hình. Tưởng rằng đây là phim lịch sử nhưng thực ra, phim chỉ mượn chất liệu lịch sử để kể một câu chuyện hư cấu với các yếu tố võ thuật, hành động, trinh thám, tình yêu lãng mạn, chút hài hước và kỳ bí. Phim cổ trang Việt trước đây thường hay bị khán giả cũng như các chuyên gia đánh giá là “giống Trung Quốc”. Nhưng ngay từ những hình ảnh đầu tiên, Victor Vũ đã cho khán giả thấy
đây là một bộ phim thuần Việt mà vẫn đẹp long lanh không kém phim cổ trang các nước khác trong khu vực. Từ phục trang, bối cảnh, đạo cụ cho tới từng chiếc lá cây cũng đều toát lên một vẻ “Việt Nam” mà gần như ai cũng có thể nhận thấy được.
Phim có những cảnh quay được dàn dựng công phu với hiệu ứng slow motion, với những màn võ thuật bay lượn trên không trung mang tới hiệu quả cao về thị giác. Các thế võ đẹp mắt cùng các cảnh quay chiến đấu được thực hiện hấp dẫn và cảm xúc và khiến cho số đông người xem khá thỏa mãn phần nhìn.
Những thành công trong xử lý tạo hình
Thành công trong cách kể chuyện và cấu trúc tự sự mới      
Các nhà nghiên cứu điện ảnh thế giới đã chỉ ra rằng khi sản xuất một bộ phim điện ảnh, dù làm theo quy mô gì thì mục đích tối thượng vẫn phải đánh được vào tâm lý khán giả, khiến khán giả cảm động và muốn xem bộ phim đó. Điều này phụ thuộc vào công tác đạo diễn. Đạo diễn trước hết vẫn cần một tay nghề vững chắc trong, xử lý tác phẩm phải thể hiện được bản lĩnh, đặc trưng riêng của văn hóa dân tộc mình, thể hiện và phát hiện chính xã hội đương thời với những suy tư, lo toan, hạnh phúc mang đầy tính thời sự nhưng vẫn có những vấn đề muôn đời của nó, để phim điện ảnh Việt Nam có thể thu hút chính khán giả trong nước, từ đó bắc nhịp cầu giao lưu với điện ảnh các nước khác trên thế giới. Quá trình này không hề đơn giản vì điện ảnh Việt Nam phải đối mặt với những tồn tại tự thân cần được bứt phá, nhưng cam go do hoàn cảnh khách quan tạo nên.
          Nói vậy nhưng cũng không thể phủ nhận sự cố gắng tìm tòi những hướng đi mới, những thể nghiệm mới của các đạo diễn trong suốt những năm vừa qua. Đã có không ít các bộ phim thành công về công tác đạo diễn, tạo được tiếng vang trong và ngoài nước. 
Vẫn ở bộ phim Bi ơi đừng sợ, chúng ta thấy được vai trò của đạo diễn được thể hiện trong phim khá rõ nét.  Khi xem Bi, đừng sợ, nhiều khán giả cũng sẽ cảm thấy phong cách giống đâu đó tác phẩm khác trên thế giới cũng thuộc dòng phim tác giả. Tuy nhiên, đạo diễn Phan Đăng Di đã biến những sự liên hệ đó trở thành bản sắc của riêng mình bằng thứ ngôn ngữ điện ảnh mượt mà, dung dị đủ để người xem có thể “cảm” được  từng “chặng đường” của chuyến hành trình cảm xúc mà bộ phim đem lại. Khi màn hình tối đen và những giai điệu cất lên cũng là lúc mỗi người xem tìm được những nỗi niềm riêng trong tâm hồn, cũng có khi chỉ là những dấu lặng hay những dòng suy nghĩ bâng quơ bất ngờ “chộp” được vào một thời khắc rất tình cờ trong cuộc sống.  
Cách xử lý kịch bản với những tuyến chuyện lồng ghép, chồng chéo lên
nhau đẩy người xem rơi đúng vào điểm nhìn của cậu bé Bi một cách có chủ ý và tạo cảm giác vừa tò mò, lại vừa sợ hãi trước sự lạnh lẽo của đồng loại, sự thiếu hụt tình cảm giữa những con người ở ba thế hệ trong một gia đình. Chuyện đó không phải là điều xa lạ trong xã hội ngày nay. Bi, đừng sợ ví von những mối quan hệ tình cảm của con người giống như viên đá – có thể chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác để rồi sau đó tan chảy và biến mất vào hư không. Thứ mạnh mẽ nhất tác động lên nó chính là thời gian. Ai trong số chúng ta cũng đều có những lúc cảm thấy mệt mỏi trước một mối quan hệ – có thể là tình yêu, tình bạn hay đơn giản là đam mê với một thứ gì đó. Khi xúc cảm mất đi thì những mối quan hệ đó dần trở nên vô cảm và đến lúc nào đó sẽ thực sự kết thúc.
Khi chuẩn bị quay Thiên mệnh anh hùng, đạo diễn Victor Vũ đã chia sẻ trên báo Vnexpress ngày 22 tháng 1 năm 2012. “Trước khi bước vào dự án này, sự hiểu biết của tôi về Nguyễn Trãi và thời đó rất hạn chế. Tôi đã phải tìm đọc qua sách vở về lịch sử vì dù là phim hư cấu, dã sử nhưng dù sao cũng là mượn chất liệu lịch sử, phải làm sao cho hợp lý để không tạo cảm giác là có sự khác biệt nhiều quá. Đó là một thử thách rất lớn khi thực hiện Thiên mệnh anh hùng” , “ Phần casting ở mỗi bộ phim vô cùng quan trọng. Tôi không hay mời diễn
viên mà mọi người đều phải casting hết. Kể cả một diễn viên có tên tuổi cũng không bao giờ có thể nhập được mọi vai trong mọi phim. Casting sẽ đem tới cho đạo diễn hai đánh giá quan trọng, một là khả năng của một diễn viên mới, hai là góc độ mới của một diễn viên cũ”, “Mọi người xem và nhận xét phim này là giống Trung Quốc thì tôi nghĩ là mọi người nên xem cái gì là giống Trung Quốc, có phải là bối cảnh, nội dung, nhân vật, phục trang, thể loại hay không. Một bộ phim có quá nhiều yếu tố nên nói chung chung là giống Trung Quốc thì rất không công bằng. Nếu mà nói thể loại phim có giống Trung Quốc không thì đó là điều đương nhiên. Đối với tôi, yếu tố bay nhảy là một vẻ đẹp của điện ảnh chứ không phải là một cái gì đó của Trung Quốc. Tôi khẳng định các yếu tố từ phục trang, câu chuyện, bối cảnh của Thiên mệnh anh hùng hoàn toàn thuần Việt, đậm chất Việt”
Như vậy có thể nhận thấy, ở  bất cứ lĩnh vực nào, đạo diễn cũng cần có những sáng tạo, trao đổi ý tưởng nghệ thuật của mình với các thành phần trong đoàn phim để tìm ra tiếng nói chung, tạo hiệu quả cho phim.
Trong một khoảng thời gian khá dài, Áo lụa Hà Đông được nhìn nhận là bộ phim  “lấy nhiều nước mắt”  của khán giả.  Bộ phim có nhiều điểm sáng, đặc biệt là nghệ thuật tạo hình và khâu dựng bối cảnh. Khi Dần và anh Gù đính hôn nhau trong một ngôi chùa đã đứng trước một pho tượng không có đầu để thắp hương. Hình ảnh này như muốn nói tình yêu của họ thật cùng cực, manh mún, không trọn vẹn. Nhưng ngay trong cái hiện thực khắc nghiệt đó, một hình ảnh lãng mạn vẫn xuất hiện,giúp cho tâm lý nhân vật như được vút bay lên là hình ảnh quả cau, mà khi đặt vào tay anh gù, Dần cũng đồng thời giao ước: “ Khi nào nó lên cây thì mình sẽ cưới”. Trong suốt chiều dài bộ phim, những cặp hình ảnh hiện thực – lãng mạn thường xuyên sóng đôi nhau, tạo nên những tín hiệu thẩm mĩ rất ấn tượng. Và hình tượng mà đạo diễn đã xây dựng thành công nhất trong phim là hình tượng chiếc áo dài, vật đã xuất hiện như một bảo chứng cho mối tính của Dần với anh Gù, gắn chặt với những biến động trong gia đình Dần, và cũng chính là những biến động trong một giai đoạn lịch sử đầy máu và nước mắt của dân tộc.
         Điện ảnh chỉ có thể phát triển nhờ những tìm tòi, những phong cách thể hiện mới và tác phẩm điện ảnh phản ánh cá tính nghệ thuật của đạo diễn. Đạo diễn phải là người ghi dấu ấn và phong cách lên tác phẩm của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà Biđừng sợ của đạo diễn Phan Đăng Di lại được phần đông giới phê bình ưu ái coi như “ một điểm sáng của điện ảnh Việt”. Bởi ngoài những thành công về mặt tạo hình trong thiết kế mỹ thuật hay công tác quay phim, thì nghệ thuật kể chuyện của đạo diễn trong phim này là yếu tố lớn để biến nó thành một tác phẩm đặc biệt. 
Không đi theo lối kể thông thường của Hollywood như khán giả Việt Nam vẫn quen thưởng thức ngoài rạp, Biđừng sợ tập trung vào cảm giác chứ không phải câu chuyện nên sẽ là một trải nghiệm “khó nhằn” đối với số đông khán giả. Có thể nhiều người sẽ cảm thấy “thô”, thấy “trần trụi” trước những gì hiện hữu trên màn ảnh rộng. Nhưng đôi khi, “đời là một cuốn phim và ngược lại, phim cũng chính là đời”.
Bi, đừng sợ không có cốt truyện như những bộ phim khác mà thay vào đó, đạo diễn Phan Đăng Di sử dụng viên đá là mối liên kết giữa các nhân vật và từng tuyến chuyện. Viên đá giúp người ông xoa dịu những đau đớn mà bệnh tật của tuổi già đem lại, viên đá giúp người cô kìm nén những ham muốn tình dục lúc nửa đêm, viên đá khiến người cha giải tỏa được cơn khát giữa mùa hè nóng bỏng. Còn với Bi, viên đá là một thứ gì đó thú vị, hấp dẫn em mỗi khi nhìn thấy và chạm vào để cảm nhận cái tê buốt trên những đầu ngón tay. Đá còn giúp Bi lưu lại những chiếc lá khô. Nếu như ví những tảng đá lạnh là cánh cửa bước vào thế giới người lớn, thì sự hồn nhiên, tinh nghịch và trong trẻo của một đứa bé 6 tuổi như Bi chính là lực đẩy giúp người xem bước qua được lớp nước đá mờ ảo để cảm nhận rõ hơn mối quan hệ giữa người với người cùng những nỗi niềm khát khao, đau thương tột cùng và sự tàn nhẫn của thời gian.
Phim Chơi vơi của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên là bộ phim đặc biệt,  mang đến cho khán giả cảm giác mông lung, xuất phát từ thực tế trong cuộc sống, không phải mọi thứ đều rõ ràng. Cái hay của phim chính là sự úp mở, bí mật của nó, những bí mật không lý giải được, những bí mật trong các lát cắt cuộc đời của hai người phụ nữ Duyên và Cầm đã tạo nên sự hấp dẫn cho phim, cùng với đặc trưng của ngôn ngữ kể chuyện trong phim là sự tương phản, những nhân vật trong phim luôn phải đối diện với những mâu thuẫn của chính mình. Cầm dù mạnh mẽ đến mấy cũng chỉ quanh quẩn trong ngôi nhà cổ, bất lực với những thay đổi của Duyên – mà cô chính là một phần tác giả. Hải, ngu ngơ, mềm yếu nhất lại không hề có tổn thương tinh thần nào sau một loạt những biến cố. Còn chính Thổ mới là người suy sụp nhất, sau cái chết của người tình. Tuy bộ phim nói về những cảm xúc của các nhân vật, nhưng đạo diễn Bùi Thạc Chuyên đã biết tiết chế những chi tiết nhạy cảm rất vừa phải. Các chi tiết trong phim đều ngừng lại ở ngưỡng vừa đủ, luôn đứng lại ở lưng chừng. Mặc dù chưa đạt một giải thưởng LHP chính thức nào, nhưng thống kê các bài báo ưu ái viết về bộ phim, cũng như sự háo hức lớp khán giả trẻ dành cho nó là không ít.
Trong phim Giao lộ định mệnh (đạo diễn Victor Vũ) lại có cách tiếp cận với khán giả bằng lối kể chuyện mới mẻ và thú vị.
Câu chuyện được kể qua điểm nhìn của nhân vật Mạnh tạo cảm giác ly kỳ, hồi hộp đến nghẹt thở và buộc người xem phải suy ngẫm, phán đoán mọi thứ cùng nhân vật. Không khí xám xịt, bí ẩn bao trùm suốt chiều dài phim kết hợp với lối dẫn chuyện xen lẫn giữa quá khứ – thực tại đưa đến sự mơ hồ, hoang mang. Mặc dù mô-típ của Giao lộ định mệnh không mới ở các bộ phim Mỹ nhưng lại có rất nhiều đột phá về nội dung, cách kể chuyện với cấu trúc mới mẻ. Cách tiếp cận của đạo diễn Victor Vũ đem lại cho khán giả những trải nghiệm mới mẻ rất “Hollywood” mà ít đạo diễn Việt Nam làm được.
Cùng với sự phát triển văn hóa cộng đồng trong tri thức xã hội, không chỉ riêng giới làm nghề điện ảnh và những nhà lý luận phê bình điện ảnh chuyên nghiệp, mà ngay công chúng của phim cũng đều là những khách hàng
nghiệp, mà ngay công chúng của phim cũng đều là những khách hàng khó tính,  đôi khi rất dễ chiều và ngược lại. điều khiến những khán giả khó tính ấy thích hay không thích,  không phải lúc nào cũng phải là bộ phim đưa ra những vấn đề quá lớn lao. Họ cần sự mới mẻ, cần sự sáng tạo của các nhà làm phim. Một bộ phim hay đạo diễn cần phải biết kể lại câu chuyện đó bằng hình ảnh, nhưng kể như thế nào phụ thuộc và tài năng của người đạo diễn. Vị vậy nếu như đạo diễn luôn tìm tòi, sáng tạo tìm ra những cách kể với cấu trúc mới mẻ thì cũng quyết định phần lớn đến sự thành công của phim. Điều đáng mừng là hiện nay, cũng đang dần có khá nhiều đạo diễn có nhiều đột phá trong cách kể , cũng như về mặt hình ảnh, âm thanh. Dù chưa có nhiều phim khiến khán giả thực sự kinh ngạc và thán phục nhưng ít nhiều đã mang tới cái nhìn lạc quan vào điện ảnh Việt Nam thời kỳ mới.
Thành công trong quay phim
          Cốt truyện không phức tạp, Chuyện của Pao (đạo diễn Ngô Quang Hải) đã mang đến cái nhìn táo bạo với những cảnh quay đẹp, những góc nhìn từ cao xuống, những khung hình sáng và luôn như mở rộng tầm mắt, những con đường gập ghềnh, những vuông cửa nhỏ nhìn ra khung cảnh đồi núi, mảnh đất hoa vàng trước nhà mang đến cảm xúc sâu lắng. Cảnh Pao nhìn ra cửa sổ khi bố mẹ già ra khỏi ngôi nhà, những song ngang dọc của cửa sổ như đè nén lên nhân vậy, đặt họ vào một khung cảnh bức bối và họ ra đi như một cách tự giải thoát. Về màu sắc phim để biểu cảm, trong phim Chuyện của Pao là những gam màu ấn tượng, nổi bật vẻ đẹp vùng núi phía Bắc.
Bi, đừng sợ có những khuôn hình đẹp và những góc quay tinh tế đi theo từng cung bậc cảm xúc của người xem. Hình ảnh trái táo đỏ lấp ló bên trong tảng đá lớn, hình ảnh hai đứa trẻ “cào xé” lớp ruột màu đỏ tươi của một quả dưa hấu hay hình ảnh người bố đứng trên một khu nhà tập thể cũ kỹ, đằng xa là những tòa nhà cao tầng… đều là những hình ảnh đậm chất “cine”, gây ấn tượng sâu sắc về mặt thị giác. Trạng thái tâm lý tình cảm giữa các nhân vật cũng được khai thác tới tận cùng bằng những hình ảnh mạnh. Ánh đèn ngủ màu vàng hiu hắt khi người chồng hờ hững trước sự thèm muốn của người vợ đối lập với thứ ánh sáng xanh lạnh lẽo trong cảnh làm tình của hai người về sau. Góc quay từ trên xuống cho thấy hai thân thể trần truồng nhễ nhại mồ hôi giữa đêm khuya sau cuộc truy hoan là một trong những cảnh quay để lại nỗi ám ảnh nhất trong Bi, đừng sợ. Giữa hai vợ chồng giờ đây chỉ có thể đáp ứng được cho nhau những khát khao về thể xác, chứ không thể tạo được “lửa”, tạo được cảm xúc cho một mối quan hệ đã đóng băng trong một thời gian dài.
Trăng nơi đáy giếng  được nhà quay phim Trinh Hoan và đạo diễn Vinh Sơn trau chuốt cho từng cảnh quay, đặc biệt là những cảnh trong ngôi nhà vườn gắn với bi kịch của nhân vật. Những góc quay đẹp cùng hiệu ứng ánh sáng, chủ yếu là gam màu trầm đã dẫn dụ người xem vào không khí Huế với vẻ đẹp cổ kính và nỗi buồn sâu lắng.

Phim Bi ơi đừng sợ
           Mùa len trâu (đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh) cũng là điểm sáng đáng chú ý khi phim được đạo diễn lựa chọn phong cách kể chuyện bằng hình tối giản, thể hiện chủ đề một cách mộc mạc nhất. Hình ảnh phim có độ tương phản cao, với nhiều khoảng tối trong khung hình, chỉ những chi tiết quan trọng nhất được chiếu sáng. Máy quay luôn giữ cố định ở độ cao của tầm mắt, luôn quay sang trái. Đạo diễn cũng cho biết việc để máy ở ngang tầm mắt thể hiện sự chạm chán giữa cha và con, giữa đàn ông và đàn bà, giữa con người và thiên nhiên. Đường chân trời luôn cắt ngang giữa khuôn hình, trái với quy luật bố cục cổ điển, tạo cảm giác luôn biến động của các nhân vật trong phim.
          Từ những về mặt hình ảnh của các bộ phim được đề cập trên đây, chúng ta thấy rõ hơn việc sáng tạo, cũng như những xử lý đúng đắn đối với vấn đề tạo hình trong quay phim sẽ tạo ra những bộ phim điện ảnh hấp dẫn, mang hình ảnh, phong cách biểu đạt mang bản sắc riêng của từng đạo diễn. Đảm bảo được điều đó, phim Việt Nam mới có được sự mới lạ, hay, độc đáo và riêng biệt trong ngôn ngữ điện ảnh.

Bùi Thái Dương
Đài truyền hình Việt Nam

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review