THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

Nguyên tắc và sự phá vỡ nguyên tắc của Yasujiro Ozu.

Nguyên tắc và sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim Early Summer của Yasujiro Ozu.


Điện ảnh với tư cách là một môn nghệ thuật như bao môn nghệ thuật khác, đều có quá trình ra đời, phát triển. Trải qua những biến đổi trong lịch sử, điện ảnh sẽ tự hình thành cho mình những nguyên tắc nhất định. Và dường như tất cả mọi quá trình hình thành và phát triển đều chịu tác động bởi quy luật “phủ định của phủ định”, những quy tắc đã được hình thành chi phối sự phát triển của điện ảnh trong một giai đoạn lịch sử nào đó, và sẽ đến lúc, những nguyên tắc ấy sẽ trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển đi lên không ngừng của điện ảnh, tất yếu xuất hiện sự phá vỡ nguyên tắc. Đó là một tất yếu trong quá trình phát triển của nghệ thuật nói chung và của điện ảnh nói riêng. 

Dựng phim – với tư cách là một kĩ thuật điện ảnh quan trọng, luôn bao hàm trong nó những nguyên tắc và sự phá vỡ nguyên tắc. Những “nguyên tắc” được duy trì làm nên nét đặc trưng của điện ảnh; sự “phá vỡ” nguyên tắc góp phần làm nên nét đặc trưng trong phong cách làm phim của từng đạo diễn. Một trong những yếu tố làm nên tên tuổi của Yasujiro Ozu chính là sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp trong nghệ thuật dựng phim nói chung mà sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian là một ví dụ điển hình. Sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim của Ozu được thể hiện ở hầu hết tất cả những phim do ông đạo diễn mà Early Summerchỉ là một ví dụ minh họa.

Nói một cách dễ hiểu nhất, dựng phim là sự phối hợp của một cảnh quay này với một cảnh quay tiếp theo. Với những cảnh phim đã quay, đạo diễn có thể lựa chọn nhiều phương án cho việc dựng phim: dựng nối tiếp, dựng song song...Vào khoảng 1900 -1910, khi các nhà làm phim bắt đầu sử dụng việc dựng phim, họ tìm cách bố trí các cảnh quay của họ như thế nào để kể được một câu chuyện một cách mạch lạc và rõ ràng. Như vậy, việc dựng phim được hỗ trợ bằng nhiều chiến lược đặc trưng của kĩ thuật quay phim và dàn cảnh được sử dụng để đảm bảo sự nối tiếp của kể chuyện. Mục đích cơ bản của hệ thống nối tiếp là tạo ra một dòng chảy êm thuận từ cảnh quay này đến cảnh quay khác. Vì phong cánh dựng nối tiếp tìm cách trình bày một câu chuyện, tuy nhiên chính là thông qua việc xử lý không gian và thời gian mà việc dựng phim phát triển được sự nối tiếp của kể chuyện.


Như vậy, nguyên tắc nối tiếp không gian chỉ là một khía cạnh của nguyên tắc nối tiếp trong nghệ thuật dựng phim mà ở đây người viết đã tập trung vào để thông qua đó làm sáng rõ những “phá cách” của Ozu trong kĩ thuật dựng phim.


Theo David Bordwell và Kristin Thompson, trong phong cách nối tiếp, không gian của một cảnh quay được xây dựng dọc theo trục hành động, tuyến trung tâm hoặc tuyến 180 độ. Trục hành động xác định khu vực 180 độ để đặt camera . Nhà làm phim phải tính toán quay và dựng các cảnh như thế nào để đảm bảo trọng tuyến trung tâm và việc dựng cảnh sẽ được thao tác để tạo ra và lập lại không gian 180 độ. Phương pháp 180 độ đảm bảo sự nhất quán về vị trí tương đối trong khuôn hình, đảm bảo hướng nhìn, đảm bảo hành động nhất quán. Phương pháp này vạch ra không gian rõ ràng vì thế người xem luôn biết các nhân vật ở đâu trong mối tương quan giữa người này với người khác và dựng cảnh, đặc biệt là trong mối tương quan với hành động của câu chuyện. Chính vì thế, nguyên tắc nối tiếp không gian mang lại dòng chảy êm thuận giữa các cảnh quay trong toàn bộ phim. Như vậy nghĩa là, sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp trong không gian thực chất là việc vi phạm phương pháp 180 độ. Vị trí tương đối trong khuôn hình, hướng nhìn, hành động của nhân vật không có sự nhất quán. Máy quay camera không phải lúc nào cũng đặt cùng phía với trục hành động. Chính những sự “bất thường” này làm cho người xem bối rối, khó hiểu và điều đó đã mang lại những hiệu quả tự sự đặc biệt, góp phần hình thành nên dấu ấn cá nhân của người đạo diễn.

Ozu là một trong những nhà làm phim phi Hollywood, đã phát triển hàng loạt những cách tiếp cận khắt khe để tạo ra những bộ phim hoàn toàn khác biệt so với các bộ phim kinh điển. Thay vì phải tạo ra những sự kiện đối thoại và tuân theo những nguyên tắc cơ bản, Ozu đã làm khác đi. Cuối cùng, cấu trúc về không gian và thời gian trong phim của ông đã tạo ra những điều hết sức thú vị.

Early Summer kể lại mối quan hệ giữa các thành viên trong một gia đình truyền thống Nhật xung quanh sự việc Noriko lấy chồng. Mối quan hệ đó phản ánh mâu thuẫn giữa các thành viên, trong gia đình: những người lớn tuổi như cha mẹ, anh trai Noriko thì quay về với truyền thống, khó chấp nhận và vô cùng lo lắng trước quyết định kết hôn của cô với một người đàn ông lớn tuổi, đã có gia đình và đang sống với mẹ già, một đứa con nhỏ. Nhưng Noriko thì lại kiên quyết thực hiện quyết định của mình, kết hôn với người đàn ông mình yêu rồi rời quê hương lên sống ở một nơi xa xôi. Bộ phim phản ánh những mô típ đề tài quen thuộc trong phim của Ozu và cũng là một trong những ví dụ minh họa điển hình cho sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp trong nghệ thuật dựng phim của Ozu.

Thông thường, theo nguyên tắc dựng phim của Hollywood, không gian được dựng nối tiếp giữa các cảnh quay và nó cho ta biết vị trí chính xác của các nhân vật trogn không gian. Theo phương pháp 180 độ, không gian được thiết lập tạo nên một cấu trúc vô cùng chặt chẽ. Mỗi cảnh quay, đều cho biết vị trí của nhân vật trong không gian. Nhưng điều này khác hẳn với phim của Ozu. Thay vì phương pháp nối tiếp không gian thông thường như việc làm ánh sang mờ dần…Ozu đã sử dụng hàng loạt các cảnh quay chuyển tiếp riêng biệt liên quan đến việc cắt cảnh, dựng phim. Các cảnh chuyển tiếp này thường thể hiện những không gian không liên quan trực tiếp đến các cảnh phim – nơi xảy ra những sự việc, sự kiện chính của phim và có sự hiện diện của các nhân vật. Các không gian này thường chỉ gần những nơi quay phim, gần những nơi xảy ra sự kiện chính của các cảnh quay. Chẳng hạn như ngay đầu bộ phim, cảnh đầu tiên là toàn cảnh bờ biển trải rộng tít tắp và một con chó chạy lon ton trên bờ cát. Cảnh thứ hai là cảnh khung cửa sổ nhìn ra vườn, cảnh thứ ba là cảnh hành lang ngôi nhà, cảnh thứ tư là cảnh bố Noriko ngồi trên sàn nhà, cảnh thứ 5 là cảnh Noriko cùng đứa cháu ngồi trên bàn ăn sáng và hậu cảnh là hình ảnh người anh trai đang chuẩn bị trang phục để đi làm. Như thế, để đưa khán giả tiếp cận với cảnh quay chính, Ozu đã cắt cảnh 4 lần với những không gian không phải là nơi trực tiếp xảy ra cảnh quay chính. Những không gian này tuy chẳng phải nơi diễn ra những cảnh quay chính, không có nhân vật, không có đối thoại xuất hiện nhưng lại có ý nghĩa tự sự rất lớn. Chỉ thông qua những cảnh quay như thế, khán giả biết được ngôi nhà của Noriko nằm ở đâu (ở vùng biển), ngôi nhà trông ra một vườn cây rất rộng, hàng lang vào nhà trải rộng và có nhiều lồng chim…Những cảnh không gian ấy nói lên bối cảnh xảy ra câu chuyện phim là một miền quê vùng biển, yên ả và thanh bình. Chính trong sự yên ả và thanh bình ấy, những mạch ngầm sục sôi đang chuẩn bị diễn ra.

Hầu hết các bộ phim của Ozu đều vi phạm một cách “táo bạo” nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim. Sự phá vỡ nguyên tắc này được thể hiện ở sự vi phạm phương pháp 180 độ và được biểu hiện ra ở ba khía cạnh: vị trí tương đối trong khuôn hình, hướng nhìn, hướng hành động của nhân vật. Điều này được thể hiện rõ nét trong bộ phim Early Summer.


Thứ nhất: về vị trí tương đối của khuôn hình.

Phương pháp 180 độ đảm bảo rằng, các vị trí tương đối trong khuôn hình luôn nhất quán trong toàn bộ phim. Tức là khi camere quay từ các vị trí khác nhau thì các nhân vật vẫn cùng các vị trí tương ứng của mỗi người trong khuôn hình. Chẳng hạn như trên khuôn hình có ba nhân vật đang đứng thẳng hàng với nhau, nhân vật B đứng giữa nhân vật A và C. Vị trí của các nhân vật sẽ vẫn được giữ nguyên trong các cảnh quay khi chưa có sự di chuyển vị trí của nhân vật. Một khuôn hình trong đó nhân vật A hay C đứng giữa hai nhân vật còn lại sẽ là sự vi phạm quy tắc này. Và sự vi phạm này sẽ làm cho khán giả bối rối.

Early Summer của Ozu có sự vi phạm phương pháp 180 trên. Trong rất nhiều cảnh quay, Ozu đã cắt hẳn 180 độ qua trục không gian cảnh quay từ hướng đối diện. Điều đó làm cho diễn viên cũng như đồ vật trong cảnh quay thứ nhất ở bên phía tay phải nhưng trong cảnh quay thứ hai lại ở phía bên trái và ngược lại. Ví dụ như:

Ở phút thứ 4 của phim Early Summer, trong cảnh Noriko ngồi trên bàn ăn sáng: cảnh trước, cô ngồi đối diện theo hướng nhìn thẳng vào máy quay nhưng cảnh sau đó Noriko đã ngồi quay lưng lại ống kính.

Ở phút 41 của phim: cảnh hai bố con Mamyia ngồi nói chuyện với nhau: cảnh trước Mamyia ngồi bên phải và đối diện với ông bố; ông bố ngồi theo hướng nhìn thẳng vào ống kính. Nhưng cảnh sau đó, Mamyia đã ngồi bên trái ông bố và ông bố đã quay lưng lại ống kính.

Ở phút 44 của phim, cảnh Noriko và chị dâu ngồi nói chuyện với nhau: cảnh trước Noriko ngồi phía bên trái, quay lưng lại với ống kính, người chị ngồi phía bên phải đối diện với cô. Nhưng cảnh sau đó, Noriko đã ngồi theo hướng nhìn thẳng vào ống kính và ở bên phải, còn người chị lại ngồi quay lưng lại với ống kính.

Ở phút 69 của phim, cảnh mẹ Noriko và chị dâu Noriko ngồi cùng hướng với nhau theo chiều từ phải sang trái nhưng cảnh sau đó cả hai người lại ngồi theo chiều ngược lại, nhìn từ trái sang phải.

Ở phút 83: cảnh bố mẹ Noriko ngồi buồn bã khi biết tin Noriko quyết định kết hôn với Yabe – người đã có một con. Cảnh trước cả bố mẹ Noriko ngồi cùng hướng theo chiều từ phải sang trái. Cảnh sau đó, mẹ Noriko ngồi theo hướng nhìn từ trái sang phải. Cảnh quay tiếp theo, bố Noriko ngồi theo hướng nhìn từ phải sang trái. Cảnh sau đó, mẹ Noriko ngồi nhìn theo hướng nhìn từ trái sang phải. Cảnh tiếp sau đó, cảnh cả bố và mẹ Noriko đã lại ngồi theo hướng nhìn từ trái sang phải.

Sự vi phạm phương pháp 180 độ như trên làm cho mối nối giữa các cảnh quay trở nên rõ nét, không được êm thuận. Với một khán giả thông thường nhất, dù không gọi tên được đó là sự vi phạm nguyên tắc nối tiếp không gian thì họ cũng nhận ra được điều bất thường từ những mối nối đó. Sự vi phạm nguyên tắc nối tiếp không gian như vậy làm cho vị trí tương đối trong khuôn hình không nhất quán, vị trí tương ướng của nhân vật trong khuôn hình không được duy trì trong các cảnh quay. Điều đó phần nào gợi lên sự trúc trắc, không đồng nhất trong quan điểm giữa các nhân vật. Đặc biệt sự vi phạm nguyên tắc này ở cảnh quay phút 83 của phim, nó càng tô đậm thêm sự buồn bã, lo lắng của bố mẹ trước quyết định của Noriko và nhấn mạnh sự cô đơn của bố mẹ khi con gái mình sắp đi lấy chồng.


Thứ hai: về hướng nhìn của nhân vật.

Phương pháp 180 độ được duy trì đảm bảo hướng nhìn của nhân vật luôn nhất quán. Chẳng hạn một khuôn hình 1 thể hiện hai nhân vật A và B đang nói chuyện với nhau. Khuôn hình 2 thể hiện hướng nhìn của A từ trái sang phải và khuôn hình 3 thể hiện hướng nhìn của nhân vật B từ phải sang trái. Nếu khuôn hình 3 thể hiện hướng nhìn của nhân vật B cùng chiều với nhân vật A, tức là từ trái sang phải thì sẽ làm cho hướng nhìn của nhân vật không nhất quán, tức vi phạm phương pháp 180 độ. Hiện tượng này xảy ra rất nhiều trong các cảnh quay của phim Early Summer.Ví dụ:

Ở phút 27 của phim, cảnh Noriko và 2 người phụ nữ khác đang ngồi nói chuyện trong phòng. Cảnh quay thứ nhất quay toàn cảnh ba người đang ngồi nói chuyện cùng với nhau. Cảnh quay thứ hai, thứ ba và thứ tư lần lượt quay từng nhân vật một và các nhân vật đều nhìn theo một hướng từ phải sang trái.

Ở phút 44, cảnh Noriko và chị dâu ngồi nói chuyện với nhau. Cảnh quay trước quay toàn cảnh hai chị em đang ngồi trong phòng. Những cảnh kế tiếp sau đó quay từng người một và cả hai chị em đều nhìn theo hướng từ phải sang trái.

Ở phút thứ 49, Tami và mẹ Noriko ngồi nói chuyện với nhau. Cảnh trước quay toàn cảnh hai người đang ngồi đối diện với nhau. Những cảnh sau đó quay từng nhân vật một nhưng cả hai nhân vật đều nhìn theo một hướng từ trái sang phải.

Ở phút 57, cảnh Noriko và người bạn gái ngồi nói chuyện với nhau. Cảnh thứ nhất có sự hiện diện của cả hai người, cả hai ngồi cùng hướng và nhìn từ phải sang trái. Cảnh kế tiếp, Noriko nhìn từ trái sang phải. Cảnh liền kề, người bạn gái nhìn từ phải sang trái. Tiếp đó, lại cảnh Noriko ngồi nhìn từ trái sang phải. Và sau đó là cảnh hai người vẫn ngồi cùng phía theo chiều nhìn từ trái sang phải.

Ở phút 112, cảnh hai chị em Noriko ngồi trên đồi cát nói chuyện. Cảnh trước quay cả hai chị em cùng ngồi nói chuyện. Các cảnh sau đó quay từng nhân vật một và hướng nhìn của các nhân vật đều theo chiều từ phải sang trái. 

Ở phút 120, cảnh cả nhà ngồi lại cùng nhau sau bữa cơm tối, nói chuyện và dặn dò Noriko khi Noriko sắp lấy chồng và chuyển đến một nơi xa xôi sống. Cảnh trước quay toàn cảnh mọi người ngồi quây quần bên nhau. Những cảnh sau đó, từng nhân vật xuất hiện độc chiếm khuôn hình và các nhân vật đều nhìn theo hướng từ trái sang phải.

Như vậy, nguyên tắc nối tiếp không gian của Hollywood rõ ràng bị phá vỡ. Nguyên tắc ấy chỉ ra rằng, các nhân vật đang đối thoại với nhau phải nhìn cùng một hướng. Sự vi phạm nguyên tắc này của Ozu làm cho hướng nhìn của nhân vật không nhất quán. Dường như các nhân vật ấy không nói chuyện với nhau dù thực chất các nhân vật đó đang ngồi nói chuyện với nhau. Sự vi phạm này tạo ra sự không êm thuận giữa các mối nối cảnh quay. Điều đó phải ánh những bất thường, những vết rạn trong mối quan hệ giữa các nhân vật và cả những bất trắc trong cuộc sống. Điều đó làm cho hầu hết những phim của Ozu, ngay cả những phim diễn ra ở những bối cảnh rất bình yên, tĩnh lặng nhưng khán giả vẫn cảm nhận được những bất trắc, những vết rạn nứt của cuộc sống mà chúng ta đang bị cuốn trôi đi đến mức độ thờ ơ, dửng dưng bởi cứ ngỡ rằng tất cả đã hoàn hảo, chẳng có gì để nói. 

Trong rất nhiều cảnh quay khác, toàn cảnh thể hiện các nhân vật đang đối thoại với nhau nhưng khi quay từng nhân vật riêng rẽ, chúng ta lại thấy hiện tượng các nhân vật nhìn trực tiếp vào ống kính để nói. Điều này được thể hiện rõ nét qua những cảnh đối thoại ở những phút 52, phút 68, phút 82, phút 94. Việc để cho nhân vật nhìn thẳng vào ống kính để đối thoại đã mở rộng đối tượng đối thoại của nhân vật (không chỉ có nhân vật trong phim mà còn đưa tạo điều kiện cho khán giả tham gia nhiều hơn vào bộ phim). Điều đó càng làm tăng tính đối thoại trong các cảnh quay và mở rộng thêm ý nghĩa của phim, phạm vi thông tin của phim mang lại.

Như vậy, với những phương pháp nghệ thuật mang những đặc trưng riêng, những tình huống đối thoại được thực hiện bằng những cảnh quay lặp đi lặp lại đôi khi cắt 180 độ so với trục quay, làm cho hình cảnh các nhân vật đối thoại trong những cảnh riêng rẽ và liên tiếp thay vì phải tạo cảm giác là họ đang nhìn vào nhau để nói chuyện hay nhìn cùng vào một sự vật thì Ozu lại để cho các nhân vật nhìn cùng một hướng, như vậy đánh lừa cảm giác là hai nhân vật ấy không nhìn vào nhau. Chính những nét đặc trưng riêng này đã góp phần làm thành đặc trưng phong cách cuả Ozu.

Thứ ba: về hướng hành động.

Phương pháp 180 được sử dụng nhằm duy trì sự nhất quán trong hướng hành động của nhân vật. Chẳng hạn khuôn hình 1, nhân vật A đi từ trái sang phải. Hướng chuyển động của nhân vật từ trái sang phải làm thành trục hành động. Khuôn hình 2, nhân vật A vẫn phải đi theo hướng từ trái sang phải, tức duy trì hướng hành động của nhân vật. Nhưng khi một cảnh quay vượt qua trục đó, tức một cảnh quay từ phía bên kia làm cho nhân vật A trong khuôn hình 2 thay vì đi từ trái sang phải lại đi từ phải sang trái. Một cắt dựng không đảm bảo sự nhất quán trong hành động như vậy đã vi phạm phương pháp 180 độ. Sự vi phạm này sẽ làm khán giả bối rối, mất phương hướng.

Sự vi phạm phương pháp 180 độ làm cho hướng hành động của nhân vật trong rất nhiều cảnh quay của Early Summer không nhất quán. Trong rất nhiều cảnh quay, ở cảnh quay trước nhân vật đi từ phải sang trái. Hướng từ phải sang trái làm thành hướng hành động hay trục hành động. Nhưng cảnh quay kế ngay đó, nhân vật lại vào hình theo hướng từ bên trái sang bên phải (trước khi nhân vật xuất hiện ở cảnh quay sau lại thường là một không gian xuất hiện trước và điều đó làm cho khán giả mong đợi là nhân vật sẽ đi từ bên phải vào nhưng sự xuất hiện đột ngột của nhân vật từ phía bên trái đi vào làm khán giả bất ngờ) Ví dụ các cảnh quay như:

Ở phút thứ 4: cuối cảnh trước Isamu đi theo hướng từ phải sang trái khuôn hình nhưng cảnh sau đó Isamu lại đi vào từ bên phải của khuôn hình. 

Ở phút thứ 7: Cảnh trước Noriko đi từ phải sang trái rẽ lên cầu thang. Cảnh liền sau đó, một không gian căn phòng xuất hiện và Noriko đi vào khuôn hình theo chiều từ bên phải.

Ở phút thứ 19, Noriko đi theo chiều từ trái sang phải mang đồ uống cho bố và chú. Cảnh sau xuất hiện không gian căn phòng nơi bố Noriko và ông chú đang ngồi nói chuyện, và Noriko đột ngột đi từ phải sang trái. Cảnh kế theo, Noriko đi ra, cô lại đi từ trái sang phải. Và cảnh sau đó cô lại vào hình theo chiều từ trái sang phải.

Ở phút 44, Noriko về nhà. Cảnh trước cô đi theo chiều từ trái sang phải nhưng cảnh sau cô lại đi theo chiều từ phải sang trái.

Ở phút 55, cảnh trước Noriko và người bạn đi lên phòng cô và đi theo chiều từ trái sang phải. Nhưng cảnh sau đó, hai người lại đang đi theo chiều từ phải sang trái.

Ở phút 97, cảnh trước Noriko và người bạn bước lên cầu thang và đi theo chiều từ trái sang phải nhưng cảnh sau, họ đã bước hết cầu thang và đi theo chiều từ phải sang trái.

Ở phút 121, Noriko chạy lên cầu thang theo chiều từ trái sang phải nhưng cảnh sau cô lại chạy từ phải sang trái.

Những cảnh quay như trên làm cho hướng hành động của nhân vật không nhất quán. Khán giả nhiều lúc cảm thấy như nhân vật vừa đi theo chiều từ A đến B ở cảnh quay trước nhưng ở cảnh quay sau nhân vật lại đi ngược trở lại theo chiều ngược lại. Điều này làm cho khán giả để theo dõi phim phải chú ý đến các đồ vật trong không gian để định vị vị trí của nhân vật có phải đã đến một không gian mới hay là nhân vật lộn trở lại không gian ban đầu.

Ngoài cách dựng như trên làm hướng hành động của nhân vật không nhất quán, Ozu dựng những cảnh quay liên tiếp làm phá tuyến hành động trung tâm. Cảnh trước nhân vật A vắng bong nhưng đột ngột xuất hiện ở cảnh sau và nhân vật được theo sát bởi camera, làm thành một trục hành động mới.

Tuy có rất nhiều những bước phát triển làm phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim nhưng Early Summer vẫn có những cú dựng tuân thủ mẫu mực nguyên tắc này. Điều đó làm cho bộ phim, sau những cú dựng làm cho khán giả bối rối khó hiểu cũng được “trấn an” trở lại. Ví dụ như những cú dựng theo điểm nhìn tương hợp:

Ở phút thứ 5, cảnh trước mẹ Noriko từ từ ngẩng đầu nhìn lên từ bên trái, cảnh sau là cảnh cái cột gắn con chong chóng và phía dưới là hình những con cá làm bằng vải được gắn trên cột. 

Ở phút thứ 60, cảnh trước bố mẹ Noriko đang nhìn lên bầu trời, cảnh sau xuất hiện quả bong bay đang bay trên bầu trời.

Ngoài những cú dựng đảm bảo nguyên tắc nối tiếp không gian nhờ những điểm nhìn tương hợp, trong Early Summer còn có rất nhiều những cú dựng trong đó đảm bảo vị trí tương đối trong khuôn hình, hướng nhìn và hướng hành động của nhân vật nhất quán từ cảnh quay trước với cảnh quay sau. Chính những điều đó làm cho phim của Ozu tuy có những cách tân đặc biệt nhưng vẫn được khán giả dễ dàng đón nhận.

Nói tóm lại, nguyên tắc và sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim được thể hiện trong hầu hết những phim của Ozu mà Early Summer chỉ là một ví dụ minh họa. Chính sự phá vỡ nguyên tắc này, kết hợp cùng với nhịp điệu rề rà chậm rãi trong phim đã làm cho khán giả được nhìn ngắm những gì diễn ra trước mắt lâu hơn, ấn tượng hơn, dễ đọng lại trong tâm trí khán giả hơn và để lại dấu ấn lâu bền hơn. Đặc biệt, sự phá vỡ nguyên tắc ấy đã khắc sâu cho chúng ta thấy những bất trắc, những vết rạn nứt của cuộc sống mà chúng ta đang bị cuốn trôi đi đến mức độ thờ ơ, dửng dưng bởi cứ ngỡ rằng tất cả đã hoàn hảo, chẳng có gì để nói.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review