THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

Đạo diễn với nghệ thuật quay phim ( Bài 6)

Đạo diễn với nghệ thuật quay phim ( Bài 6)

VTVTC: Website daotao.vtv.vn đi vào hoạt động từ 12/4/2013. Điều làm chúng tôi rất vui là những thông tin phản hồi tích cực từ các đồng nghiệp trong cả nước. Hơn thế, nhiều đồng nghiệp còn sẵn sàng chia sẻ với daotao.vtv.vn những kiến thức, kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình làm nghề và học tập.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết thứ sáu ” Đạo diễn với nghệ thuật quay phim ” của Thạc sĩ Bùi Thái Dương- Trưởng phòng Đạo diễn và Quay phim – Ban Thể thao – Giải trí và Thông tin kinh tế- Đài truyền hình Việt Nam.

Đạo diễn Bùi Thái dương tác nghiệp tại Trường Sa

Bố cục và chiếu sáng
Bố cục khuôn hình điện ảnh là sự sắp xếp các vật thể, bối cảnh, ánh sáng, chuyển động nhân vật, góc độ máy sao cho tổng thể đạt tới sự cân đối, đôi khi là ấn tượng của thị giác. Bố cục được xem là ổn thoả khi trong nó không có sự dư thừa, rối rắm. Nhưng một bố cục khung hình đẹp đòi hỏi nhiều thứ khác, trong đó có điểm mạnh.
Không như sân khấu, điện ảnh cho phép người quay phim cắt cúp thân thể, vật thể, cho phép những cận cảnh rất chặt. Điều đó – một gương mặt cắt ngang trán, một mái nhà hất cao chẳng hạn – khiến bố cục khung hình điện ảnh trở nên độc đáo, ấn tượng. Khuôn hình điện ảnh có năm kích cỡ căn bản: đặc tả, cận cảnh, trung cảnh, toàn cảnh, toàn cảnh rộng. Đặc tả khi máy dí sát vào đối tượng để nhận ra một chi tiết. Bố cục điện ảnh hoàn chỉnh là một bố cục không chỉ nhắm tới cái đẹp, cái lạ mà góp phần tạo nên kịch tính. Vì vậy đòi hỏi mỗi đạo diễn cần thể hiện khả năng của mình trong việc tạo hình để có những bố cục đẹp cho phim.
Ánh sáng là chất liệu đầu tiên của việc thu hình, là nguyên tắc kỹ thuật – bảo đảm đúng sáng chẳng hạn – nhưng cùng lúc cũng là nơi biểu hiện tâm hồn, phong cách của đạo diễn: người ưa tương phản, người thích mượt mà, sáng trưng, hoặc người thích sự lung linh mờ ảo.
Đạt được hiệu quả đặc biệt và thấy rõ ràng nhất là ở trong phim Mùa len trâu của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh. Cảnh sông nước buổi bình minh, sông nước buổi chiều và cảnh đêm xuống. Ánh sáng trong phim tạo cho người xem trở về với miền quê của Việt Nam, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long mùa nước nổi. Tất cả những hiệu quả đó tùy thuộc cách đặt sáng, độ nhạy của phim, chế độ in tráng. Nhưng trên hết, tuỳ thuộc cảm quan người đạo diễn với nghệ thuật quay phim. Đạo diễn cần bàn bạc với người quay phim để phác hoạ sơ đồ đặt sáng trước khi quay, dù mọi toan tính có thể lệch do khách quan thay đổi. Cách chiếu sáng hiệu quả trong điện ảnh rất mênh mông, tùy theo những xử lý khác nhau phù hợp mục đích tác giả.

Đoàn làm phim Mùa len trâu tác nghiệp
Với ánh sáng thẳng, khi nguồn sáng chính chiếu trực diện vào đối thể, hình ảnh sẽ rõ nhưng không cho hình khối. Đây là cách chiếu sáng đơn giản, an toàn, chân phương nhất nhưng ít nghệ thuật nhất. Ở đây là cách chiếu sáng ngược: khi nguồn sáng chính nằm sau lưng đối thể, cách chiếu sáng cho độ tương phản rất cao, chi tiết đối thể không rõ, nhưng nổi bật hình khối nhờ các viền sáng ngược. Và đó còn là cách chiếu sáng ven: Là nguồn sáng trung dung giữa 2 cách chiếu sáng kể trên, được dùng nhiều trong điện ảnh bởi nó cho cảm giác mọng mượt, vừa nổi khối, vừa thấy rõ chi tiết.
          Yêu cầu về ánh sáng trong mỗi bộ phim rất khác nhau, và căn cứ vào ý tưởng nghệ thuật cùng yêu cầu của từng đạo diễn. Người đạo diễn cần đưa ra những ý đồ nghệ thuật cũng như quyết định ánh sáng của phim với người phụ trách ánh sáng.
Ở đây ánh sáng ảnh hưởng mật thiết đến sự thành công của một bộ phim. Nói cho cùng, tất cả những công việc sản xuất như phông màn, đạo cụ, tài năng…. đều phải dựa vào ánh sáng mới nổi bật được. Ánh sáng ẩu dễ làm hư một tác phẩm nghệ thuật, và ngược lại, ánh sáng đẹp sẽ làm tăng thêm giá trị một bộ phim bình thường.  Kinh nghiệm và phong cách là những yếu tố cần thiết để đạo diễn chọn một người quản lý ánh sáng. Kinh nghiệm rất quan trọng. Lo ánh sáng cho một góc quay hay nhiều góc quay cùng một lúc là những chuyện rất khác nhau. Nhiều người phụ trách ánh sáng đã vô cùng lúng túng khi tìm cách lên đèn cho một cảnh sử dụng nhiều máy quay ở các góc độ, nhất là khi họ đã quen với kiểu quay một máy. Nói về phong cách, đó là khả năng ghi nhớ bối cảnh của một bộ phim.
Ví dụ trong một bộ phim khung cảnh đồng quê, phụ trách ánh sáng cần chú ý hạn chế kiểu ánh sáng thành thị màu mè.Phụ trách ánh sáng phối hợp chặt chẽ với đạo diễn để cùng làm tôn lên phong cách nghệ thuật của một bộ phim. Có câu chuyện kể rằng khi một vị đạo diễn nổi tiếng và đáng kính được các sinh viên hỏi điều gì quan trọng nhất họ có thể làm để nâng cao chất lượng hình ảnh, ông đã trả lời: “Hãy thuê người phụ trách ánh sáng tốt nhất có thể, thậm chí chia một phần lương của mình cho anh ta” .
Đạo diễn cần phải hiểu rõ về ánh sáng và đưa ra ý đồ của mình với người phụ trách ánh sáng vì khi quay phim thường sử dụng ánh sáng từ các hướng khác nhau để quay cận cảnh mặt diễn viên. Đôi lúc trong những cảnh nhiều máy quay phim ở các góc độ, không sử dụng ánh đèn nào cả. Nhà quay phim điều khiển máy quay, kiểm tra và chịu trách nhiệm về các đoạn phim đã thực hiện: ánh sáng, góc nhìn, hình ảnh và sự diễn đạt âm thanh.
Đạo diễn cần nắm rõ cấu tạo của máy quay và thường giải quyết những vấn đề kỹ thuật xảy ra trong suốt quá trình làm phim trong khi quay phim thì thạo sử dụng ánh sáng với nhiều kiểu và độ nhòe khác nhau. Trong những cảnh hoành tráng, đạo diễn thường quản lý nhiều nhà quay phim lo riêng về các chuyển động của máy quay.

Cảnh trong phim Mùa len trâu
 Tông phim và màu sắc
          Màu sắc chủ đạo trong phim phụ thuộc vào độ đậm nhạt của nó trong hình, cũng giống như trong hội họa, sẽ kết hợp với những yếu tố khác để tạo ra những hiệu quả hình ảnh đặc biệt. Tùy vào từng nền văn hóa mỗi màu sắc cũng có những ý nghĩa đặc trưng một cách khách quan. Màu xanh lá cây tượng trưng cho hy vọng, màu đỏ tượng trưng cho bạo lực…Nhưng màu sắc và những yếu tố hình ảnh, âm thanh trong phim sẽ kết hợp với nhau và làm thay đổi những nền tảng khách quan này. Như vậy là màu sắc có một khả năng biểu cảm thực sự cả khi nó đứng riêng rẽ hay khi kết hợp với sự lựa chọn ống kính, với các động tác máy
          Tuy nhiên màu còn tùy thuộc vào độ đậm đặc của nó trong khuôn hình. Cũng giống như trong hội họa, sẽ kết hợp với những yếu tố khác để tạo ra những hiệu quả hình ảnh đặc biệt.
          Ví dụ như trong phim Đôi cánh của đam mê (đạo diễn Wenders), một phần lớn của phim được quay đen trắng. Khi diễn viên chính, Bruno Ganz, một trong các thiên thần quyết định là sẽ sống trên mặt đất, chấp nhận mất cánh, sống với những nỗi đau cũng như những niềm vui của loài người thì hình ảnh chuyển sang có màu. Trong phim này màu tượng trưng cho trần gian và đen trắng tượng trưng cho cuộc sống trên thiên đường nhưng có vẻ như nặng nề bởi tính vĩnh cửu.
Đa số các phim được làm là phim màu nhưng những cảnh quay đen trắng có thể được sử dụng để tạo ra một không khí kịch tính với vẻ siêu thực, phù hợp cho trí tưởng tượng phát triển. Sự lựa chọn này sẽ ảnh hưởng trực tiếp cảm nhận của khán giả về cả tác phẩm.
Các thủ pháp và góc độ quay phim
Đạo diễn phải tập trung suy nghĩ về sự chuyển động của cảnh và sự phối hợp giữa các cảnh. Góc quay là góc nhìn từ máy quay với chiều sâu, chiều dài, chiều rộng cân xứng với vật hay hành động được quay. Góc nhìn từ máy quay không chỉ quyết định cái gì sẽ xuất hiện trong cảnh đó mà nói chung còn là cách khán giả sẽ nhìn sự việc – gần hay xa, từ trên xuống hay từ dưới lên, chủ quan hay khách quan… Do đó sự chọn góc quay không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ câu truyện mà còn thể hiện chất lượng thẩm mỹ của cảnh quay và quan điểm tâm lý của khán giả. Có những quy ước quan sát quốc tế dành cho chuyển động máy quay. Theo quy định, một nhà quay phim sẽ chạy máy quay ở vị trí nhất định trong một thời gian ngắn trước khi bắt đầu chuyển động, và đứng im một lần nữa sau khi hoàn tất chuyển động. Một cách nhìn thoáng hơn về luật này là chuyển động bắt đầu và kết thúc ở một điểm đặc biệt nào đó đã được chọn sẵn và quay tập nhiều lần trước khi quay chính thức.
Đạo diễn trong trường hợp này phải quyết định chuyển động máy, ví dụ sau một cảnh quay ngang từ trái sang phải không thể nào có cảnh quay ngang từ phải sang trái, hay là sự chuyển động của nghệ sĩ từ trái sang phải không thể theo sau một sự chuyển động khác từ hướng ngược lại. Ngoài kiểu quay thường còn có kiểu quay cầm tay, một máy quay xách tay nhẹ cân cầm trên tay của nhà quay phim và dựa vào vai của người đó mà không cần dùng chân chống. Kiểu quay này bắt nguồn từ nhà quay phim thời sự và được sử dụng rộng rãi trong các phim tài liệu và những nhà làm phim tiên phong. Đầu những năm 60’ việc sử dụng máy quay phim cầm tay trong việc sản xuất phim điện ảnh ngày càng tăng, vừa tiện lợi vừa đạt được cảm giác thật hơn trong một số cảnh quay.
Có thể nói đặc tính của điện ảnh là chuyển động, điếu đó không có nghĩa máy quay nhất thiết phải luôn luôn xoay trở. Chuyển động điện ảnh bao hàm sự chuyển động của máy, chuyển dịch của các đối thể, chuyển động của nội tâm, tính vận động của toàn câu chuyện. Kỹ thuật chia sự “xê dịch” có hai kiểu chính: Lia (pan) và trượt (dolly, travelling). Lia là sự quét máy từ hướng này sang hướng khác, cả chiều ngang lẫn chiều xéo , chiều dọc theo đưởng thẳng. Dolly – hay travelling là sự đeo bám đối tượng trên mặt đất, theo đường thẳng, đường cong hoặc đường tròn. Bằng sự chuyển dịch có ý thức của máy, của ánh sáng sẽ tạo ra những khuôn hình đẹp. Cái đẹp là đích đến của điện ảnh.
Tác phẩm điện ảnh là “cái nhìn” của đạo diễn, được thể hiện qua khuôn hình ở các góc quay khác nhau.
Góc quay là góc nhìn từ máy quay với chiều sâu, chiều dài, chiều rộng cân xứng với vật hay hành động được quay. Góc nhìn từ máy quay không chỉ quyết định cái gì sẽ xuất hiện trong cảnh đó mà nói chung còn là cách khán giả sẽ nhìn sự việc – gần hay xa, từ trên xuống hay từ dưới lên, chủ quan hay khách quan… Do đó sự chọn góc quay không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ câu truyện mà còn thể hiện chất lượng thẩm mỹ của cảnh quay và quan điểm tâm lý của khán giả. Qua nhiều năm, đạo diễn và nhà quay phim đã thành lập một kiểu quy ước liên quan đến kỹ thuật, thẩm mỹ và đặc tính tâm lý của nhiều góc quay khác nhau. Góc ngang (vừa tầm mắt) để diễn tả cảnh giống như thật nhưng ít kịch tính. Người ta cho là nó cung cấp cái nhìn bình thường và thường quay từ độ cao 1.2 m đến 1.8 m. Tầm mắt của nghệ sĩ (chứ không phải của nhà quay phim) quyết định chiều cao của máy quay, và đặc biệt chủ yếu trong những khi quay cận cảnh. Vì hướng nhìn bình thường nên cảnh quay góc ngang thường được sử dụng để tạo nên tình huống và chuẩn bị cho khán giả một cảnh liên quan. Trong cảnh quay góc cao máy quay nhìn xuống sự vật. Theo kỹ thuật thì nó có thể cho phép đạo diễn có cái nhìn bao trùm hết mặt đất và hành động trong chiều sâu. Cảnh như vậy cũng sẽ có khuynh hướng làm chậm hành động lại và giảm bớt độ cao của sự vật hay nhân vật (theo luật xa gần). Nét đặc trưng cuối cùng này có thể gây ra nhiều hiệu quả tâm lý phụ, ví dụ như cho khán giả cảm giác mạnh mẽ hơn nhân vật trên màn ảnh hay ngụ ý hạ thấp tầm quan trong của bất cứ nhân vật nào với những người hoặc khung cảnh xung quanh.
 Trong nghệ thuật quay có vài nguyên tắc thể hiện của góc máy: Máy hất lên cho cảm giác thanh thoát, tôn trọng.
Bộ phim Tướng về hưu (đạo diễn Khắc Lợi) là câu chuyện đau xót về những tình cảm gia đình đã mất đi trong cơn lốc của thời mở cửa, một vị tướng rời quân ngũ trở về gia đình và hoàn toàn lạc lõng trong một đời sống đang thay đổi với những giá trị bị đảo lộn hàng ngày.
          Tình cảnh gia đình ông Thuấn dường như rất phổ biến trong xã hội Việt Nam lúc giao thời, khi đồng tiền len lỏi và chi phối trong mọi mối quan hệ. Ông Thuấn như người xa lạ trong chính ngôi nhà của mình trước cô con dâu sắc sảo, người con trai nhu nhược và một bà vợ lẩn thẩn. Hình ảnh người tướng già đột qụy ở cuối phim trong tư thế nằm nghiêng ở cầu thang, một tư thế bó hẹp về góc máy.
Còn máy chúc xuống gây hiệu ứng trái ngược, khi mô tả khách quan máy không thể cao, thấp, xéo, nghiêng…tuỳ thích mà phải tương đương với mắt nhân vật; chỉ khi máy đại diện cái nhìn chủ quan tác giả thì góc độ mới tự do. Dù ở góc độ nào đi nữa, một tác phẩm điện ảnh “đẹp” là khi nó rung động trái tim người xem.

Một số hình ảnh phim tướng về hưu
Trong phim The Last Laugh  – Tiếng cười sảng khoái cuối cùng (đạo diễn Murnau), diễn viên Emil Jannings thường được quay từ trên xuống sau sự sụp đổ của ông, trong khi trước đó các cảnh miêu tả ông như là một ông gác cổng kiêu hãnh thường được quay ở góc thấp. Trong cảnh quay góc thấp, máy quay thường đặt ở dưới nhìn lên sự vật. Hiệu quả của cách này thường là để tạo kịch tính, tạo nên sự xuyên tạc quyền lực của viễn cảnh và toàn bộ sự việc. Nó thường đẩy nhanh diễn biến phim, thêm tầm cao và sức mạnh cho nhân vật. Sự sắp đặt máy quay góc thấp chiếm ưu thế trong phim Citizen Kane (Công dân Kane) của Orson Welles để làm nổi bật sự to lớn phi thường của ông trùm báo chí. Để chấp nhận việc thường xuyên sử dụng kiểu quay này, Welles đã phải xây dựng phim trường toàn là trần nhà. Chính sự có mặt khắp nơi của trần nhà ở cảnh nền đã tạo nên một trong những nét đặc trưng khác thường của Citizen Kane. Chỉ đơn thuần thay đổi góc quay, đạo diễn có thể không chỉ cho thấy sự thăng trầm trong cuộc đời nhân vật mà còn thổi vào thái độ khán giả phải chấp nhận qua những cá tính và hành động trong phim. Sự đa dạng trong các góc quay là vô tận. Không có luật lệ nào về chuyện phải sử dụng góc quay nhất định cho một cảnh nào đó. Góc ngang, góc cao và góc thấp chỉ là những nhóm chính, như là cách quay cạnh (thêm một chiều nữa cho sự vật), góc Hà Lan/ khung nghiêng (nhìn sự vật trong cái nhìn nghiêng hiệu quả cao) và rất nhiều góc quay khác được sử dụng cũng như chưa được biết đến qua bao nhiêu thập kỷ làm phim.
(Còn tiếp)
Bùi Thái Dương
Đài truyền hình Việt Nam

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review