THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

ĐƯỜNG NÉT - BỐ CỤC TRONG KHUÔN HÌNH



Sự cân bằng phù hợp của các yếu tố là sự cần thiết đối với 1 mẫu design. Luật cân bằng có 2 loại đó là cân bằng đối xứng và cân bằng bất đối xứng. 

Đối xứng và không đối xứng:
Cân bằng đối xứng biểu thị tất cả các yếu tố như chiều cao, chiều rộng ... được sắp đặt 1 cách đối xứng trong trang. Cân bằng đối xứng đề cập đến tất cả những gì được sắp xếp trong 1 bố cục. Cân bằng đối xứng được chia ra làm nhiều loại như cân bằng đảo ngược, cân bằng 2 trục, cân bằng xuyên tâm... 

Cân bằng bất đối xứng đạt được khi không có sự đối xứng.Khi tất cả các yếu tố được xếp đặt không có sự đối xứng với nhau, cân bằng bất đối xứng được thiết lập. 

6 yếu tố căn bản trong bố cục ảnh 

Tags: sự vận dụng, sự cân bằng, hiệu ứng quang, bố cục, bức ảnh, Khuôn Hình, có thể, nhiếp ảnh, yếu tố, nét, điểm, hướng, tới, nhất

Bố cục ảnh so sánh kích thước (toà nhà với ôtô). 
Nếu như vẽ tranh là hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó thì trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại. Trong bố cục ảnh, có 6 chuẩn mực để bạn dựa vào, nhưng để các tấm ảnh có hồn, thu hút và tránh nhàm chán rất cần tới sự vận dụng linh hoạt.

Cả hội hoạ và nhiếp ảnh đều là nghệ thuật truyền tải thông tin thị giác và chịu sự chi phối của những nguyên lý căn bản về cảm nhận thực thể bằng ánh sáng. Nhưng nếu hội hoạ là nghệ thuật tổng hợp thì nhiếp ảnh là kỹ thuật phân tích. Khi vẽ tranh, hoạ sỹ đưa dần vào khung toan trắng những nét cọ để tạo ra nội dung và bố cục của nó. Nhưng trong nhiếp ảnh, người ta làm công việc ngược lại…

Với bối cảnh thực có sẵn nội dung và bố cục, tay máy phải thay đổi góc nhìn, sử dụng ống kính wide hay tele, xoay trở khuôn hình để chọn lọc những yếu tố xây dựng lên bức ảnh. Tuy nhiên, dù là thêm vào hay bớt đi các mảng khối trong khuôn hình, cả hội hoạ và nhiếp ảnh đều hướng tới cách xếp đặt hiệu quả nhất để thể hiện nội dung các tác phẩm. Trong kết quả cuối cùng, ở mức độ nào đó, cả tranh vẽ và ảnh chụp đều được đánh giá bởi một chuẩn mực về bố cục.

Tiết tấu tạo bởi hiệu ứng quang học.
Khi đánh giá một bức ảnh, người ta xem xét nó trên những yếu tố căn bản về nội dung, màu sắc, trạng thái và hiệu ứng quang học. Nếu bố cục được nhấn mạnh trong khi các yếu tố khác bị khoả mờ, bản thân nó có thể là chủ đề của nhiếp ảnh.

Hầu hết các yếu tố căn bản này giúp truyền tải thông tin thị giác như điểm và đường nét, hình dạng, màu sắc, chất liệu bề mặt và độ tương phản đều liên quan đến bố cục bức ảnh. Người chụp ảnh dựa trên những nguyên tắc này để phát triển kỹ năng sắp xếp các đối tượng trong khuôn hình.

Tìm ra tiết tấu hay mô thức xếp đặt trong bối cảnh là kỹ thuật rút ra logic về vị trí, sự xếp đặt các vật thể trong khuôn hình, chọn được góc đặt máy tốt nhất phản ánh tiết tất và mô thức trên các vật thể. Kỹ thuật này rất phổ dụng đối với ảnh kiến trúc, giao thông, dây chuyền sản xuất… Việc phát hiện logic xếp đặt trong một bối cảnh lớn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng quan sát và xâu chuỗi của tay máy. Tuy nhiên, việc lạm dụng tiết tấu, thiếu suy ngẫm và phân tích sẽ dẫn đến những bức ảnh dập khuôn nhàm chán. Việc áp dụng hiệu quả bố cục này phải đi liền với các hiệu ứng ánh sáng, tạo bóng và góc đặt máy khác thường.

Phản ánh chiều sâu không gian:

Ví dụ, một hàng cột tròn đều tăm tắp và sáng rõ trong nắng trưa sẽ không thể đẹp bằng bức ảnh chúng đứng trong ánh sáng xiên thấp hơi lệch phương ống kính. Nhờ nắng tạt ngang, bóng cột sẽ đổ dài tạo một hàng cột nữa nằm dưới đất, thân của chúng sẽ được “vê” tròn lẳn vì hiệu ứng chuyển sáng tối. Nếu đặt máy thật thấp dưới chân hàng cột với ống kính góc rộng, đầu của chúng sẽ sẽ chạm vào nhau và lao vút lên trời, rất thú vị. Nhiều khi các tiết tấu lại xuất hiện cùng hiệu ứng quang học và chỉ tác động vào ống kính ở một góc nhìn nhất định, vấn đề là phải tìm tòi và sáng tạo.

Thể hiện được kích cỡ vật thể hoặc khoảng cách:

Kỹ thuật này giúp người xem ảnh hình dung kích thước của vật thể trong khuôn hình. Sử dụng tốt phép so sánh chênh lệch về kích thước có thể nêu bật được độ lớn của đối tượng trong bức ảnh. Ví dụ, nếu muốn minh hoạ độ lớn của một con voi nên đặt chú sáo bé như hạt gạo trên lưng nó. Ngược lại, khi chụp macro một bông hoa nhỏ, người ta nhấn mạnh mức phóng đại của bức ảnh bằng một chú kiến vàng lớn như con ong chúa. Vật thể làm mẫu so sánh nên thuộc loại hình ảnh quen thuộc, dễ hình dung kích thước như con người, ôtô, que diêm, cái bút...

Khi đề cập đến bố cục là nói đến đường nét, vậy chúng ta thử tìm hiểu và phân tách vai trò quan trọng của đường nét trong bố cục để xây dựng tác phẩm.Như chúng ta đã thấy, ánh sáng chiếu vào những hình thể trong vũ trụ, tạo nên đường nét. Đường nét có thể là đen, là trắng, là xám, cũng có thể to hoặc nhỏ và không bắt buộc phải liên tục.
Tùy theo tính chất và vị trí của đường nét, tùy theo những đường viền kết hợp thành nó, nên đường nét có thể làm rung cảm tâm hồn và tạo những nguồn cảm xúc khác nhau.
Đường nét là căn bản xây dựng nội tâm của ảnh: thẳng, cong hay gẫy khúc, nó có thể cho nhìn thấy hoặc cụ-thể-hóa ra, hoặc gợi ra (trong phong cảnh không có đường nét lớn để lấy làm chính thì sự liên lạc hữu hình hoặc vô hình là đường nét chính) cho người xem.
Đưòng nét có thể là ngang, là dọc, là chéo. Đường nét có thể đặt theo những nhịp điệu có nhiều tương ứng với chúng ta, bởi vì nó bắt nguồn từ những sự biểu lộ tự nhiên và nó lược-đồ-hóa sức mạnh ấy tùy thuộc loại hình ảnh trình bày không thay đổi từ ngàn xưa.
Như vậy người ta ghép ý nghĩa trang nghiêm với đường dọc, phẳng lặng với đường ngang, sống động với đường chéo. Và đường thẳng vẫn có ý nghĩa là cứng rắn, là nghiêm khắc, đường cong diễn tả sự rung cảm và sự trọn vẹn, đường gấp diễn tả sự sống động và hỗn loạn.

Sự cân xứng của ảnh phần chính nằm trong sự tương hợp giữa những đường nét và những mảng đậm lợt. Vì cân xứng không có nghĩa là cân đối nên người ta xếp bố cục bằng hai cách:
1/ Bố cục cân đối
2/ Bố cục không cân đối
Bố cục cân đối
Theo toán học: Cân đối là hai đối xứng ở hai hình bằng nhau, cách đều nhau hai bên một điểm hoặc một cái trục nhất định.
Nghệ Thuật: Về phương diện nghệ thuật, cân đối là sự phù hợp về kích thước, về tương xứng của những phần khác nhau của cơ thể và tương xứng của những phần ấy với toàn cục. Kết quả là một tổng hợp điều hòa tẻ nhạt về hình thức mà những tương xứng phối hợp lại một cách đều đặn.
Sự cân đối là căn bản của kiến trúc. Những nghệ sĩ thời cổ thường dùng nó để khai diễn những đề tài tôn giáo, những hình thái khắt khe, cứng rắn một cách trang trọng. Người ta thường dùng nó cho những ảnh về lâu đài, nhà thờ v.v...
Đường dọc là đường chế ngự trong bố cục cân đối, và bố cục cân đối là một cách bố cục đầy đặc tính trang trọng. Nó có thể giảm đi. Nếu bố cục theo hình tam giác thì nó sẽ có sự linh động phần nào trong toàn thể.
Bố cục cân đối đưa đến sự tẻ nhạt, ít gợi cảm, càng tránh được càng tốt. Tuy nhiên có khi người ta muốn nghịch ngợm, dùng cách bố cục cân đối để nhạo cổ điển.

Bố cục không cân đối là nguồn cảm hứng phóng khoáng của nghệ sĩ. Nó không có luật lệ, mà luật lệ chỉ là tìm cảm hứng trong ký ức thẩm mỹ của tác giả.Đối với loại bố cục này ta phải chú ý đến sự cân xứng, nó có liên hệ chặt chẽ với phép phối cảnh.
Đường nét là nền tảng của bố cục nên nhờ nó mà ta tìm cảm hứng và dùng nó làm địa bàn đi tìm trọng tâm ( cùng nghĩa là chủ điểm ) và sự cân xứng của ảnh.

Nhưng nếu khai diễn sắc thái của đường nét, ta sẽ thấy bố cục của cách bố cục không cân đối. Trong lãnh vực đó người nghệ sĩ sẽ để cho tùy theo tâm hồn hướng dẫn bởi vì những đường tạo ra trong lúc cảm hứng sẽ dùng làm căn bản cho sự xây dựng đề tài mà mình muốn và gợi ý ra những trạng thái nó đưa đến bố cục chót.
Đường nét là yếu tố sáng tác của nghệ sĩ, nhưng khi không đạt được sự gợi cảm, thì dùng đường nét chỉ là đường nét mà không là nghệ thuật.
Trong bố cục không cân đối, nên tránh để chân trời chia ảnh ra làm hai phần bằng nhau, phần trời và phần đất đều nhau sẽ không làm cho ta chú ý đến phần nào và mắt cứ đưa từ phần này qua phần khác. (Trong một vài trường hợp cũng có thể để chân trời ở giữa tùy theo sự suy diễn của tác giả.)
Trong phong cảnh để chân trời ở 1/3 trên hoặc ở 1/3 dưới tùy theo tác giả muốn đặt phần quan trọng diễn tả ở phần trên hay phần dưới: như muốn tả về trời, về mây thì để chân trời ở 1/3 dưới, còn nếu muốn nhấn mạnh về cảnh mặt nước, cảnh trên mặt đất thì để đường chân trời ở 1/3 trên.

Sự phù hợp giữa đường nét và tâm hồn:

Ta phải tập nhìn ra đường nét ngay lúc đóng khung cho ảnh để chụp để có thể áp dụng những quy tắc bố cục. Có bốn loại đường nét thường dùng trong bố cục:

- Đường ngang
- Đường dọc
- Đường chéo
- Đường cong

Những loại đường này có thể dùng riêng biệt hoặc phối hợp tùy theo loại và tùy theo chủ đề của ảnh.

Làm sao những đường nét chỉ có hình thức trừu tượng mà lại có mãnh lực rung cảm?
Nếu chúng ta nghiên cứu một số những tác phẩm hội họa thì ta thấy bố cục của những họa sĩ danh tiếng thường đặt căn bản trên vài hình thức kỷ-hà-học. Không phải chỉ có hội họa mà còn cái gì do người tạo ra đều tìm đến hình thức sắp xếp của Kỷ-hà-học vì nhãn quan của người ta đã bị giáo dục theo cái cân xứng sắp xếp đó, vô tình chúng ta đã tìm những đường mạnh của bố cục để căn cứ vào đó mà suy tưởng và cảm xúc.
Bố cục của vũ trụ đặt căn bản trên hình thức kỷ-hà-học nên làm cho cảm giác chúng ta bị những hình thức kỷ hà ăn sâu và chi phối. Thí dụ khi nói đến kim-tự-tháp Ai-Cập là ta nghĩ ngay đến hình chóp bốn góc, khi nói đến nhà thờ ta nghĩ ngay đến tháp chuông cao vút với vẻ uy nghi.

Như vậy là có sự liên quan chặt chẽ giữa sự xây dựng đường nét của ảnh với sự truyền cảm của tâm hồn. Nếu ta chú ý đến sự phù hợp đó ta sẽ kiểm điểm được bố cục của ta.

Ngôn ngữ rung cảm của đường nét:

Ta nhận thấy những loại đường nét gợi cho trí óc chúng ta cái cảm tưởng khá rõ ràng để nhận định cái ý nghĩa riêng biệt của nó. Cũng đôi khi cái cảm tưởng đó vượt khỏi tầm phân tách của ta.

Những sự phù hợp sẵn có giữa đường nét và cảm giác đã được nghiên cứu kỹ càng và được dùng cho bộ môn kiến trúc và trang trí, thì người nhiếp ảnh chúng ta cũng có thể áp dụng nó được.

Như vậy ta có thể khái niệm rằng: đường thẳng có nghĩa riêng là phù hợp với nghị lực và bền bỉ biểu lộ sự cương quyết mà đường cong không có được , vì nó chỉ có thể gợi cho ta ý mềm dẻo, yếu đuối và kết tụ. Đường cong cũng thuận cho cách gợi ra đều đặn, quý phái mà khi ngắm đường gẫy khúc không thể có được. Đường gẫy khúc khi cứ kéo dài mãi thì với sự chập chờn và run rẩy của nó cho ta cảm tưởng linh động.

Nhưng đường nét lại còn cho ta nhiều cảm tưởng đặc biệt tùy theo vị trí của nó và cách xếp đặt. Ai lại không biết là đường ngang gợi cảm giác bình thản, buồn bã biểu lộ sự lâu dài. Trái lại đường dọc gợi cho cảm giác sôi nổi và phát sinh ra cảm tưởng trang nghiêm, cao quý.

Chúng ta chợt có những cảm giác lạ khi ta ngắm đường ngang mặt biển trải rộng mênh mông hầu như vô tận trước tầm mắt chúng ta, hay khi ngắm cây tháp cao vút của ngôi giáo đường, ta thấy lân lâng lên mãi như dễ đụng tới từng mây.

Những cảm giác đó tăng độ lực và phát hiện với những đường lập đi lập lại và giảm bới đi khi có những đường nghịch với nó.

Góc cạnh là do sự gặp nhau của hai đường hội tụ mà thành và gợi cho những cảm giác do đường nghiêng nghiêng của cạnh.

Góc cạnh càng thu hẹp thì cảm tưởng càng nhiều và giống như cảm tưởng phát sinh bởi cái ngắn của đường dọc.

Góc cạnh càng mở rộng cảm giác có thể gần gũi đến lẫn lộn với cái ngắn của đường ngang.

Như thế những đường của hình chóp và hình tam giác cho ta ý niệm lạ, lâu dài,, bền bỉ, vững vàng. Tùy theo hình dáng cân xứng của hình tam giác mà ta sẽ thấy hợp với đường ngang hay với đường dọc: hình tam giác cạnh dưới (đáy) hẹp và mỏng mảnh sẽ thoảng thấy như đường dọc. Hình tam giác cạnh dưới (đáy) rộng sẽ thấy như đường ngang.

Hình tam giác gợi cảm giác vững chắc và sống động mà khi thêm vào đó những đường chéo sẽ cho cảm tưởng hoạt động và nhịp nhàng.

Đường hội tụ cũng có thể gợi cho ta sự thoát ra, sự vô tận. Tùy theo vị trí của điểm tụ mà những đường đó cho ta cảm tưởng đi lên hay cảm tưởng về chiều sâu.

Đường chéo gợi sự hoạt động, tốc độ. Nếu bắt chéo nhau, nó biểu lộ sự lẫn lộn, sự không thăng bằng, sự hằng hà sa số. Nếu nó vượt khỏi một điểm thì đó là phóng ra, là tia ra, là đụng chạm và là bạo hành. Nếu nó được phân chia đều đặn, nó cho ta cảm giác vững vàng.
Đường cong cũng không có được tính chất rõ ràng như đường thẳng. Ta cũng thấy những đường cong rất mỹ miều hấp dẫn như trong thế giới thảo mộc, trong thế giới động vật lúc còn nhỏ và nó mất dần đi khi cằn cỗi già nua, và cũng như thấy đường cong đậm tính chất uy nghi gần nghĩa điều hòa khi nó mô tả đạn đạo vòng cầu.

Đường cong dùng để nối liền những yếu tố trong bố cục và ráp lại những phần trong bố cục. Vì sự quan trọng của nó nên trong nhiều trường hợp nếu thiếu nó thì bố cục không thành.
Các nguyên tắc bố cục ảnh phá cách 
Chụp ảnh là thú chơi sáng tạo với đường nét, màu sắc, hình khối… Nhưng khi làm chủ tấm hình với các nguyên tắc cơ bản, bạn sẽ nhanh chóng đi đến thành công hơn và dễ tìm kiếm sự… phá cách hơn. 

Nguyên tắc chia 3 
Đây là nguyên tắc căn bản và phổ biến nhất. Một khung hình sẽ được chia làm 3 phần ngang và dọc. Đường ngang và dọc gọi là đường mạnh, điểm giao giữa hai đường này gọi là điểm mạnh.
Khi chụp, có thể áp dụng quy tắc này trong các bức ảnh phong cảnh. Ví dụ, đặt đường chân trời, mặt biển, mặt sông, vạch đường… theo đường mạnh; các đối tượng đặt ở điểm mạnh. 
Do đó, không nên đặt đường chân trời nằm ngang như chia đôi bức ảnh thành hai phần bằng nhau. Cũng không đặt đối tượng ở trung tâm bức ảnh lớn (trừ các kiểu chụp cận cảnh). 

Đơn giản các thành phần
Ngay cả trước khi áp dụng nguyên tắc chia 3, bạn đã phải chú ý đến nguyên tắc này. Bức ảnh cần làm rõ chủ thể và ý tưởng, do đó các chi tiết thừa phải loại bỏ tuyệt đối. Có hai điểm cần làm để đơn giản hóa các thành phần:






Tiếp cận sát đối tượng
Đưa chủ thể vào khung hình một cách gọn gàng, dễ nhất là zoom vào thật gần đối tượng để loại bỏ những chi tiết gây nhiễu xung quanh. Tất nhiên, bức ảnh vẫn có một nội dung, bố cục cân chỉnh.
Có thể chụp ảnh trong minh họa với ống kính góc rộng và ở cự li như trong ảnh sẽ ôm cả một mớ bòng bong bao gồm cả mọi người lẫn nhà cửa,mái đình.Nhưng từ vị trí đó với một ống kính hợp lý anh cũng có thể bắt trọn khuôn mặt bầu bĩnh của đứa trẻ và hậu cảnh mờ có bóng dáng bố mẹ đang lao động.

Dọn dẹp cho hậu cảnh gọn gàng
Trong trường hợp chụp để lấy phong cảnh rộng, các yếu tố gây nhiễu rất nhiều. Đó là lý do tại sao những người chụp ảnh nghệ thuật rất khó tính dọn dẹp mọi thứ cho quang đãng mà vẫn không làm bức ảnh mất đi vẻ tự nhiên.
Một cách nữa là tạo độ sâu trường ảnh để làm mờ hậu cảnh, khiến các chi tiết “nhức mắt” không làm nhiễu đến chủ thể, nghĩa là mắt người xem không bị phân tán ra các hình thù khác.

Dùng đường dẫn
Các đường thẳng, đường cong trong thực tế rất nhiều và có thể làm bức ảnh sống động hơn khi đặt đúng chỗ. Khái niệm “leading line” (đường dẫn) có nghĩa là đường đó sẽ dẫn mắt người xem đi từ điểm này đến điểm kia một cách có chủ đích, chứ không dẫn đi lung tung.





Tạo độ sâu về không gian
Dùng các đường dẫn trong tự nhiên như con đường ngoằn ngoèo đi về phía chân trời sẽ tạo ra cảm giác về chiều sâu như cảnh khuôn hình dưới đây được trích từ phim Bài ca người lính.


PV,st

CÁCH TẠO HÌNH ĐỘC ĐÁO CỦA NHÀ QUAY PHIM J.ANCOT



PHONG CÁCH TẠO HÌNH ĐỘC ĐÁO CỦA NHÀ QUAY PHIM J.ANCOT TRONG BỘ PHIM BARRY LYNDON

Ánh sáng không chỉ là 1 điều kiện cần thiết để có được 1 hình ảnh, mà còn là 1 trong những công cụ sáng tạo nghệ thuật của điện ảnh. Thể hiện sắc thái tâm trạng và cảm xúc của nhân vật. Nghệ thuật với ánh sang đóng 1 vai trò rất lớn trong nghề nghiệp của nhà quay phim. Cùng 1 cảnh quay ( Chân dung, phong cảnh) được chiếu sang khác nhau tạo ra ấn tượng khác nhau.
“Nghệ thuật của nhà quay phim là một dạng đặc biệt của nghệ thuật tạo hình có thể được mô tả như là nghệ thuật hình ảnh bằng phương tiện ánh sáng của các đối tượng chuyển động ba chiều lên mặt phẳng hai chiều” (Giáo sư A.D. Golovnhia)
Bộ phim Barry Lyndon diễn ra trong thời kỳ cổ xưa, trang phuc của những bộ quần áo cùng với kiến trúc của các tòa lâu đài vào thời điểm đó mang phong cách cổ điển lãng mạn, mặc dù bộ phim không thực sự lãng mạn. với những tiết tấu bộ phim chậm rãi nhẹ nhàng Nhà quay phim Jon Alcot đã chọn 1 tông màu vàng, đỏ trầm ấm của nến tạo sự mềm mại trong hình ảnh càng làm tăng thêm sự quý phái sang trọng của giới thượng lưu
Trong hầu hết các trường hợp Jon Alcot đã cố gắng sử dụng chủ yếu là ánh sang tự nhiên khi quay trong nhà để thể hiện sư trang nghiêm. Các nguồn sang nhà quay phim sử dụng chủ yếu thông qua các ô cửa sổ. Đó thực sự là 1 điều thú vị khi nguồn chiếu sáng chỉ được cung cấp bằng nguồn ánh sáng ban ngày và sau đó cố gắng để tạo hiệu ứng. Nhưng đôi khi các cảnh quay cũng không thể thực hiện được khi ánh sang bên ngoài giảm xuống 1 mức độ nhất định. Bộ phim Barry Lyndon được quay vào mùa đông, khi đó ánh sang tự nhiên ban ngày có thể quay được là lúc 9h sang và được thực hiện cho đến 3h chiều. Do vậy họ đã phải cố gắng nâng được ánh sang lên để có thể bấm máy váo lúc 8h sang và còn có thể quay được 1 cái gì đó cho đến 7h tối. Đồng thời họ cũng phải nghiên cứu các bức tranh vẽ vào thời điểm đó cách các căn phòng được chiếu sang để sao cho có thể tạo ra những hình ảnh trên phim giống với những bức tranh ở thời kỳ này.

Trong 1 số trường hợp, bối cảnh trong phim đã được tái tạo lại khác hơn so với thực tế. Ví dụ như trong 1 cảnh quay diễn ra trong phòng ăn của Barry, khi cậu con trai hỏi cha mình đã mua cho cậu 1 con ngựa chưa. Có 1 điều đặc biệt ở đây, phòng ăn có 5 ô cửa sổ, với 1 ô cửa sổ rất lớn ở trung tâm đã được cải tạo lớn hơn và cao hơn các ô cửa khác để cho ánh sang từ 1 hướng bên ngoài duy nhất chiếu vào được nhiều hơn thay vì từ xung quanh. Vì vậy họ có thể kiểm soát được nguồn sang chiếu tập trung vào trung tâm của bàn ăn, với phần còn lại của căn phòng được dìm xuống hơi om tối đẹp dịu, tạo màu sắc tinh tế hài hòa.
Khi quay trong nội thất, gần như tất cả các bổi cảnh khi được quay họ đã phải lau sạch hoặc dán các giấy mờ lên các ô cửa sổ, chỉ có 1 số trường hợp rất it thì họ không phải làm điều đó. Sử dụng 1 số loại kính lọc như ND3, ND6, ND9 để có thể kiểm soát được mật độ ánh sang từ bên ngoài phòng chiếu vào. Ngoài ra với những cảnh quay ở ngoại cảnh, nhà quay phim không bao giờ sử dụng kính lọc 85 để trước ống kính máy quay. Một là để có được hình ảnh sự cần bằng tổng thể nhất quán của nhân vật trong suốt bộ phim. Lý do thứ 2 chỉ đơn giản là do ánh sang khi quay ở ngoại thời điểm này rất thấp. Trong phim nhà quay phim Jon Alcot đã thử nghiệm tất cả những kính lọc mà ông có thể thử nghiệm được. Với bộ kính lọc Tiffen đã tạo ra được sự tương phản ở mức độ cao nhất ngay cả khi độ mở ống kính được mở rộng mà vẫn không làm mất đi bất kỳ chi tiết nào.
Trong phim Jon Alcot đã sử dụng phim 5254 negative, vì phim 5247 vào thời điểm đó không có sẵn ngay cả khi bộ phim đã quay xong. Do vậy để có được độ mịn, độ tương phản như phim 5247 ông đã phải sử dụng thêm kính lọc ND3 với phiên bản phim 5254. Có nhiều ý kiến cho rằng với độ tương phản cao hơn khi quay bằng phim 5247 thì hình ảnh sẽ hoàn hỏa hơn, nhưng trên thực tế để hình ảnh có được sự trung thực nhất nhằm đạt được yêu cầu của đạo diễn thì việc sử dụng kỹ thuật của Jon Alcot như vậy là tốt hơn nhiều. Để cố gắng tạo được sự tương phản trong phim ông đã phải sử dụng rất nhiều cách khác nhau, phải sửa đổi màu sắc của 1 số thiết kế nội thất làm giảm phản xạ ánh sáng nó xuống. Ví dụ như một số đồ nội thất được sử dụng để quay trong phim “Barry Lyndon” có rất nhiều vùng trắng nếu chúng ta lấy sang theo nguồn sang từ cửa số thì 1 số đồ vật này sẽ bị lốp sang. Do vậy trong hầu hết trong những cảnh quay này các đồ vật đã được phủ bởi 1 lớp lưới màu đen như : đá cẩm thạch màu trắng của các lò sưởi, khung cửa sổ được sơn trắng, những mảng tường lớn màu trắng v.v… Chúng ta sẽ không thể nhìn thấy nó trên phim, trừ khi chúng ta trực tiếp tham gia thực hiên bộ phim. Đó là 1 điều kỳ diệu trong việc dìm tông màu trắng. Đôi khi ông cũng sử dụng kính lọc Half, khi nguồn sang tự nhiên chiếu vào vật thể mà không làm giảm lượng sang xuống được ví dụ như nếu nguồn sang phát ra từ bên trái và chiếu vào 1 vật gì đó mà không thể phủ lưới đen lên được họ sẽ đặt phần tối của kính bên phải, phụ thuộc vào độ sang của vật thể.

Đối với Jon Alcot thì chiếc máy quay để quay bộ phim “Barry Lyndon” thực sự tuyệt vời. Chủ yếu là do hệ thống quang học của máy quay vận hành quá tốt. Hệ thống quang học giúp ông thu được những hình ảnh được phóng đại lớn hơn nhiều lần so với thực tế. Một tính năng khác chỉ có thể tìm thấy ở chiếc máy quay Arriflex 35BL là ông có thể kiểm soát được khẩu độ trong tầm tay, nó có độ mở ống kính lớn hơn nhiều so với các ống kinh thông thường vào thời điểm đó ( Ống kính có tiêu cự 50mm và độ mở ống kính là 0,7f được hãng Zeiss cải tiến từ ống kính thiên văn của NASA). Tính năng này của ống kính đặc biệt quan trọng để thể hiện ý tưởng của đạo diễn Stanley Kubrick sử dụng ánh sang nến để quay trong nội, 1 nguồn ánh sang yếu. Đó là lý do tại sao Arriflex35BL đã có 1 lợi thế vượt trội hơn các loại máy quay khác, nó điều chỉnh khẩu độ tốt hơn nhiều cho phép bạn điều chỉnh được lượng sang khi quay ở những thởi điểm ánh sang không thuận lợi.
Một cảnh quay mà Jon Alcot cho rằng là khó khăn với ông trong việc tiết chế ánh sang đó là cảnh trong câu lạc bộ khi Barry đi qua để nói chuyện với nhà quý tộc ngồi ở bàn khác, và sau đó trở lại bàn của mình. Điều đó liên quan đến 180 độ pan và những điều đã làm cho cảnh quay này khó khăn là sự biến đổi của thời tiết bên ngoài . Có nhiều cửa sổ ở trong phòng và ông đã sử dụng 1 số đèn chiếu qua cửa số giúp cho hình ảnh được tươi sang rạng rỡ hơn. Tuy nhiên ánh sang bên ngoài bên ngoài đã bị thay đổi liên tục cường độ ánh sang lúc tăng lúc giảm cho nên ông luôn phải đảm bảo lượng ánh sang chiếu vào phòng sẽ không bị tối quá mức.

Jon Alcot đã sử dụng nhiều màu sắc ánh sang trong phim. Tiêu biểu là cảnh quay phòng sau khi Barry đã cụt chân, ông đã sử dụng 1 ánh sang chiếu qua cửa sổ thêm 1 nửa màu nâu đỏ trong đó để tăng thêm cho hiệu ứng ấm của ánh sang buổi chiều tà ảm đạm thể hiện sự buồn tẻ của Barry khi cuộc đời của anh đang đi vào những tháng ngày cuối cùng trong bế tắc. Một hiệu ứng tương tự được Jon Alcot thể hiện là cảnh cậu bé nằm trên giường bệnh sắp chết ông đã để cho ảnh sang ban ngày với hiệu quả màu xanh tạo ra 1 tông màu lạnh thể hiện sự chết choc đau thương sắp xảy ra với gia đình nhà Barry.
Sự thật là trong phim không có cảnh quay đêm. Những cảnh đêm trong phim đều được quay lúc hoàng hôn. Và nó đã tạo ra 1 hiệu quả giả đêm thực sự ấn tượng tiêu biểu là cảnh quay khi Barry đừng trước đống lửa ngoài trời đêm. 1 cảnh quay mà trong đó tông lạnh của bầu trời đêm và tông nóng của đốm lủa đã được kết hợp 1 cách hài hòa tinh tế tạo cho hình ảnh có những mảng màu lớp lam thật tuyệt vời. Cảnh quay như 1 bức tranh mà ở đó chiều sâu của hình ảnh đã được thể hiện 1 cách tối đa.


Trong cảnh quay Ludd và Barry đang ở trong phòng chơi bài và ông đã mất 1 lượng lớn tiền. Các thiết bị chiếu sang hoàn toàn bằng các ngọn nến nhưng ông đã phải dùng thêm tấm phản xạ kim loại gắn trên 2 đèn chùm mục đích chính để giữ cho nhiệt độ của các ngọn nến không làm hư hại trần nhà. Tuy nhiên nó cũng có tác dụng phản xạ ánh sang để cung cấp 1 lượng ánh sang nền cho cảnh quay. Có khoảng 3 chân đèn nến được dùng để làm chìa khóa ánh sang cho cảnh quay này, tất nhiên ông đã tận dụng được 1 lợi thế lớn trong việc sử dụng đồng hồ đo sang điện tử Gossen Panalux trong những cảnh quay bởi vì nó cho chúng ta biết được số lượng nến dùng trong 1 cảnh quay để thu được ánh sang hiệu quả. Ví dụ như trong 1 số cảnh quay số lượng nến trên đèn trùm lên đến 70 cây. Bên cạch đó họ còn tạo cho nến khi cháy phát ra cường độ sang cao hơn bình thường để thu được hiệu quả.

Tôn Quang Hải
Ảnh Đích Đến

NGHỆ THUẬT QUAY PHIM DISCOVERY



Nhiều người vẫn nghĩ phim tài liệu, phim khoa học là ghi lại trung thực những gì xảy ra. Tuy nhiên, phong cách Discovery đòi hỏi đạo diễn ngay từ đầu phải tiên đoán, tìm hiểu mọi khía cạnh, rồi đi tìm những mẩu chuyện hay và kết nối sao cho hấp dẫn như phim truyện, có mở nút, thắt nút, cao trào… Có thể nói, cách làm phim theo phong cách Discovery là tái hiện thực tế dựa trên điều có thật, chứ không phải như cách làm của Việt Nam hiện nay là bám sát thực tế quá! 
Để có thể ghi lại được những khung hình giàu cảm xúc khiến khán giả như lạc mất hồn, như bị “thấm” vào những khung hình tuyệt đẹp và bị quấn hút bởi nội dung phim, đoàn làm phim phải lên kế hoạch, chuẩn bị từ rất lâu và dựa rất nhiều trên những kĩ thuật làm phim truyện. Đoàn làm phim cần phải biết chắc mình sẽ phải quay những gì trước khi bắt đầu, vì thế mọi thứ cần phải được vẽ thành bản phác thảo (storyboard) và dựa trên kịch bản. Nhưng điều đó liệu có thể thực hiện được khi mà đối tượng ghi hình là hàng ngàn con chim trên bầu trời, hàng đàn các loài thú dữ, hay những sinh vật bất trị dưới đáy đại dương …. Luôn luôn có những tình huống bất ngờ xảy đến khiến việc làm phim không thể thực hiện y như storyboard, chính vì vậy, để có được 1 phim tài liệu, khám phá theo kiểu Discovery thì từ công tác chuẩn bị ý tưởng, kịch bản cho tới khi thực hiện quay tiền kì phải được lên kế hoạch và tính toán rất kĩ lưỡng.

Cảnh phim Chim di trú

Trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ và thảo luận cùng các bạn những kiến thức mà tôi đã học được để vận dụng vào làm phim theo phong cách Discovery. Chính vì vậy bài viết này chỉ chú trọng nói tới phương pháp quay phim để có được những hình ảnh như mong muốn với chất lượng tốt nhất, đảm bảo tính tự nhiên theo phong cách Discovery.
A.Điều kiện ghi hình: 
Khi tiến hành bấm máy ghi hình, chúng ta không thể tránh khỏi trường hợp phải ghi hình trong những điều kiện bất thường, khó khăn như: đêm tối, những nơi quá nóng như sa mạc hay những nơi quá lạnh như Bắc cực hoặc Nam Cực … Vậy để ghi được hình trong những điều kiện như vậy thì chúng ta cần phải lưu ý những vấn đề như sau:
1.Ghi hình trong đêm tối:
Khi tiến hành quay phim trong điều kiện này, ngoài việc sử dụng loại phim có độ nhậy sang tốt nhất mà ta có thì ta có thể kết họp với 1 trong 2 cách sau để giúp quay trong đêm tối là: Dùng tốc độ cửa trập chậm hoặc tăng thêm ánh sáng vô hình (invisible).
a.Dùng tốc độ cửa trập chậm:
Giảm tốc độ cửa trập của máy quay thì sẽ có thêm nhiều thời gian để thu ánh sáng từ những nơi khác chiếu vào, có thể là đèn đường hay là ánh đèn của một chiếc xe máy, ôtô đi qua hay ngay cả với ánh trăng ... Với chế độ cửa trập chậm, video sẽ đẹp hơn rất nhiều. Hầu hết các máy quay cầm tay camcorder hiện nay đều có chế độ cửa trập chậm.
Tuy nhiên, có thể hình ảnh thu được sẽ hơi bị giật hình và hình ảnh bị mờ vì tốc độ cửa trập chậm sẽ tăng độ rung của máy quay và lúc quay cũng là lúc đối tượng quay chuyển động. Ta không thể tránh được việc đối tượng ghi hình chuyển động bị mờ nhưng có thể giảm thiểu camera bị rung bằng cách gắn máy quay vào 1 điểm cố định hoặc giữ máy bằng hay tay và tựa người vào tường.
b.Tăng thêm ánh sáng vô hình (invisible - Ánh sang hồng ngoại):
Một cách khác mà ta có thể làm là tăng thêm ánh sáng để quay video trong không gian tối mịt. Nghe có vẻ vô lý nhưng thực tế có một số loại ánh sáng camcorder có thể nhìn thấy nhưng người quay và đối tượng được quay không thể nhìn thấy. Cụ thể, camcorder có thể nhìn thấy ảnh sáng hồng ngoại (IR) - vô hình đối với mắt thường. Hầu hết các loại động vật đều không thể nhìn thấy ánh sáng này. Do đó, để quay video trong đêm tối, ta có thể áp dụng cách này, tạo phản sáng cho đối tượng quay mà không “làm phiền” đến đối tượng được ghi hình.
Một số hãng sản xuất camcorder đã “hiểu lòng” người dùng và một vài camcorder có chế độ quay ban đêm bằng ánh sáng LED hồng ngoại (IR) tích hợp. Sony đã trang bị tính năng Super NightShot cho hầu hết máy quay của mình. Tuy nhiên, đèn IR LEC không tỏ ra hiệu quả lắm, nó chỉ chiều sáng trong khoảng cách ngắn, vài mét. Còn nếu bạn muốn hình quay thật ấn tượng thì nên dùng hẳn bộ đèn chiếu sáng IR. Đèn chiếu rời rất tiện lợi vì bạn có thể đặt nó ngay gần với vật cần quay. Một số công ty đã tự sản xuất loại đèn này, như Sony HVL-IRH2, sáng gấp đôi ánh sáng thật. Đèn này tương thích với tất cả camcorder có chức năng quay ban đêm NightShot.

Ảnh bên: Máy quay và đèn hồng ngoại 


Chỉ có điều nếu quay chế độ IR thì video sẽ chuyển sang chế độ đen trắng vì camcorder chỉ chụp lấy ánh sáng hồng ngoại chứ không thu ánh sáng màu. Nếu ta quay hình qua một cửa sổ hoặc có một bề mặt phản chiếu thì nên tắt đèn IR tích hợp trong camcorder để tránh bị lóa hình.


2.Quay phim trong điều kiện thời tiết nhiệt độ quá cao,quá lạnh hoăc mưa bão…
Thời tiết nóng, lạnh hay mưa đều có thể ảnh hưởng đến việc quay phim, ghi hình. Trong trường hợp này cần phải có những thiết bị để bảo vệ máy quay trong những điều kiện thời tiết khác nhau. Nếu thời tiết quá lạnh hãy tìm cách giữ ấm cho máy quay vì rất có thể là dầu của ống kính sẽ bị đóng bằng (đóng băng ống kính). Nếu thời tiết quá nóng thì không nên để máy ảnh trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời. Giữ các bộ phận trong túi đựng chuyên dùng, bao đựng chống nước sẽ giúp bảo vệ tốt thiết bị ghi hình. Ta nên gắn kính lọc, sử dụng để bảo vệ ống kính.
B.Phương pháp ghi hình: 
Thông thường, chúng ta vẫn chia làm 2 phương pháp ghi hình là: Phương pháp ghi hình lộ máy và phương pháp ghi hình giấu máy. Bên cạnh 2 thủ pháp ghi hình nói trên, chúng ta còn áp dụng 1 vài thủ pháp ghi hình đặc biệt kiểu như ghi từng hình, ghi tốc độ chậm hoặc ghi tốc độ nhanh…
a.Phương pháp quay lộ máy:
Phương pháp quay phim này được sử dụng khi mà đối tượng ghi hình đã quen với sự tồn tại của máy quay, không bị ảnh hưởng gì bởi các cá nhân, thiết bị ghi hình hay nói cách khác là chúng ta có thể làm chủ và sắp xếp được mọi thứ.
Khi này thì mọi đối tượng ghi hình đều thoải mái, sinh hoạt rất tự nhiên trước ống kính máy quay và lúc đó chúng ta chỉ việc chọn cho mình những góc máy tốt nhất để có được những hình ảnh tuyệt vời, không chê vào đâu được!
Tuy nhiên không phải lúc nào ta cũng gặp những đối tượng ghi hình “dễ bảo” như vậy. Ví dụ như trong bộ phim tài liệu “Chim di chú” của điện ảnh Pháp, để quay được những cảnh phim thơ mộng và gần đến như vậy thì buộc ta phải tiến gần với đàn chim để ghi hình chúng trong suốt quá trình đàn chim di chuyển. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để tiếp cận với chúng, làm cho chúng quen với sự tồn tại của đoàn làm phim, của các thiết bị phuc vụ công tác quay phim, ghi hinh…


Để giải quyết vấn đề này thì đoàn làm phim đã tìm cách nuôi và huấn luyện chúng, tạo cho chúng thói quen sinh hoạt bên cạnh sự tồn tại của con người và mọi thứ thiết bị và làm quen ngay cả với các thiết bị ghi hình đặc biệt như máy bay, tàu lượn, kinh khí cầu, tàu thủy, robot …
Khi đã tạo được thói quen cho bầy chim rồi thì các nhà quay phim có thể thỏa sức ghi hình, quay phim và sáng tác theo ý mình ở mọi nơi như trên mặt đất,dưới nước, trên mặt hồ hay kể cả trên trời… 
b.Phương pháp quay giấu máy:



Cách quay phim này thường được sử dụng trong các trường hợp như khi những con vật hung dữ, 1 bầy thú hoang dã, những đối tượng khó có thể lại gần chúng mà quay hoăc do địa hình không thuận lợi. Trong những trường hợp này thì các nhà quay phim thường sử dụng phương pháp như giấu máy quay tại 1 nơi kín đáo để ghi hình hoặc là dùng ống kính siêu tele, đứng cách xa đối tượng ghi hình để ghi lại các cảnh cần thiết (phương pháp ghi hình đối tượng tại viễn cảnh).
Khi tiến hành quay đói tượng ở viễn cảnh thì chúng ta cần phải lưu ý 1 số vấn đề như sau : 
Độ mù của không khí:
Điều này ảnh hưởng lớn tới chất lượng của hình ảnh quay được. Trong điều kiện độ mù quá lớn thì thậm chí ta còn không ghi nổi được hình ảnh cần thiết!
Chiều cao của đối tượng ghi hình:
Trước khi quay ta cần phải nắm rõ được chiều cao của đối tượng ghi hình để tính toán được khoảng cách nhận thấy, sau nữa là tỉ lệ hợp lí của chủ thể trong khuôn hình.
Khi sử dụng ống kính tele hay siêu tele thì Khoảng cách càng xa, tiêu cự càng lớn, kích thước và trọng lượng ống kính càng lớn vì vậy rất bất tiện khi sử dụng. Dể khác phục diều này thì ống kính siêu tele thường được chế tạo theo nguyên lí thấu kính – gương phản chiếu.


Thủ pháp ghi hình đặc biệt:
Có 2 thủ pháp ghi hình đáng nói ở đây chính là thủ pháp quay từng hình và quay tốc độ nhanh.
Để có được hình ảnh một bông hoa nở trong vòng 5,6 giây như ta vẫn thấy trên màn ảnh ti vi thì các nhà quay phim đã phải ghi hình bông hoa đó trong suốt quá trình nó nở. Quá trình này có thể là vài giờ, cũng có thể lên đến vài chục giờ!
Vậy các nhà quay phim đã làm thế nào để quay được những hình ảnh như thế này? Không lẽ họ cứ phải đứng mãi đó và nhìn chằm chằm vào bông hoa hay sao?! Mà nếu họ cứ đứng suốt như thế thì liệu có loại máy quay nào có hộp chứa băng đủ lớn để ghi lại được toàn bộ quá trình đó hay không?! Xin thưa với các bạn là làm gì có loại máy quay nào như thể! Và cũng chẳng có nhà quay phim nào cú đứng một chỗ và nhìn lien tục vào bông hoa trong suốt quá trình nó nở cả. Trong trường hợp này, người ta sử dụng phương pháp ghi từng hình, họ sẽ tính toán được là sau bao lâu thì ghi một hình để có hiệu quả tốt nhất mà khi xem, hình ảnh vẫn “mượt”, không tạo cảm giác dật hình đối với khán giả. Để biết được cách tính toán này thì mời các bạn ghé thăm trường Đại Học Sân Khấu Điện Ảnh Hà Nội vào 1 buổi học của môn Quay Kĩ Xảo – Quay Đặc Biệt do NQP-NSƯT Phạm Thanh Hà giảng dạy.
Một điều lưu ý với các bạn là khi quay từng hình thì tuyệt đối phải cố định vị trí máy quay và ổn định về ánh sáng nếu không hình ảnh sẽ không còn “mượt mà” như mong muốn!
*. Đối lập với quay từng hình là phương pháp quay tốc độ nhanh, nghĩa là quay nhiều hơn 24 hình trên 1 giây. Hình ảnh thu được khi sau khi làm chậm sẽ cho những hiệu quả kỳ thú. Ví dụ như hình dòng rượu vang chảy vào ly, các tia lửa bắn ra khi ta cắt thanh sắt, hay hình ảnh một con Ếch nhảy, ong vôc cánh hay các ngôn ngữ tốc độ kỳ thú khác ….


Để thực hiện được các cảnh quay tốc độ cao theo ý muốn thì phải tính toán chính xác tốc độ chuyển động của chủ thể ghi hình, từ đó xác định tố độ máy quay cho phù hợp.
Đối với người quay phim Discovery, đam mê là lòng nhiệt tình chưa đủ, việc nắm rõ các nguyên tắc quay phim và có đầy đủ thiết bị hỗ trợ sản xuất là điều vô cùng quan trọng. Để có được những kiến thức giúp chúng ta hoàn thành tốt công việc thì không còn cách nào khác ngoài việc phải đi học và cập nhật thêm thông tin công nghệ. Mỗi người trong chúng ta cần tự trang bị cho mình một vốn kiến thức đủ để có thể đáp ứng được những nhu cầu, đòi hỏi của khán giả và trên hết, chúng ta nên hết sức khắt khe với bản thân vì nếu chỉ bằng lòng với gì đã có thì nay mai thôi, ta sẽ là người lạc hậu.
Lê Quang Lâm
Ảnh Đích Đến

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

Phương Pháp Chiếu Sáng (Phần 4) - ÁNH SÁNG NHÂN TẠO VÀ ÁNH SÁNG TRONG NHÀ



Phần 4: Ánh sáng nhân tạo và ánh sáng trong nhà

Ánh sáng trong nhà rất khác với ánh sáng ngoài môi trường (do ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của ánh sáng mặt trời). Con người điều khiển ánh sáng thường với một mục đích riêng nào đó. Ví dụ: các thiết bị chiếu sáng trong nhà thiết kế đa phần cho ra ánh sáng khuyếch tán. Trong khi đó, ở các văn phòng người ta lại quan tâm đến cách chiếu sáng đa chức năng mà lại tiết kiệm, hiệu quả hơn. Đó cũng chính là lý do tại sao nhưng nhân viên văn phòng thường làm việc trong vùng sáng xanh lá cây.

Hầu hết ánh sáng nhân tạo trong nhà đều có tính chất khuyếch tán nhằm làm dịu ánh sáng và bóng đổ của đèn (trừ trường hợp ánh sáng rọi khá cứng). Tuy nhiên, những nhà thiết kế ánh sáng sẽ cùng cho ra kiểu sáng rọi đa luồng, không chỉ là một luồng sáng rọi mà còn vài luồng khác, tất cả cùng chiếu sáng có thể làm mềm các vùng bóng đổ khác (trong khi đó vẫn có thể tạo ra vô số các bóng sáng).
Ánh sáng mặt trời khi chiếu vào nhà thường bị khuyếch tán (do bật nẩy từ các bức tường, sàn nhà và trần nhà). Trên lý thuyết nó có thể xuyên trực tiếp qua cửa sổ, vào tận trong nhà. Tuy nhiên, thực tế lại khác, ánh sáng mặt trời thường bị cửa sổ và tường chắn lại. Do vậy, hiếm khí chúng ta thấy ánh sáng mặt trời rọi trực tíêp vào nhà mà không bị phản xạ bởi một bề mặt nào đó.

Ánh sáng mặt trời qua ô cửa sổ

Ánh sáng rọi từ cửa sổ vào thường xuất hiện trong phạm vi chiếu sáng trong nhà. Nếu ta coi bản thân cửa sổ cũng là một nguồn sáng hiệu quả thì ánh sáng hoàn toàn nhẹ (nguồn sáng từ cửa sổ rộng). Ánh sáng loại này khá hấp dẫn và rất ăn ảnh. Nếu chúng ta chỉ có 1 cửa sổ và dù nguồn sáng nhẹ đến mấy thì độ tương phản ánh sáng sẽ vẫn cao. Ngược lại, càng nhiều cửa sổ thì độ tương phản càng thấp và điều này đồng nghĩa căn phòng sẽ nhận nhiều ánh sáng hơn.

Màu của ánh sáng phụ thuộc nhiều yếu tố: đầu tiên là thời tiết, nó sẽ ảnh hưởng đến ánh sáng khung cửa sổ. Vào này âm u, ánh sáng sẽ trắng, màu xám hoặc xanh. Vào ngày nắng, nó lại có màu xanh của ánh sáng bầu trời hoặc màu trắng, vàng hay màu đỏ của ánh sáng mặt trời (tuỳ theo khoảng thời gian trong ngày). Khi ánh sáng đi qua cửa sổ, nó sẽ chịu ảnh hưởng 1 số bề mặt phản xạ từ trong nhà ra. Tường, sàn nhà và màu sắc đồ đạc trong nhà sẽ ảnh hưởng đến ánh sáng, ánh sáng phản xạ khắp nhà.

Rõ ràng, để tạo ra ánh sáng cửa số thuyết phục bạn phải cân nhắc cẩn thận các yếu tố trên, đồng thời có sự tính toán trong cường độ, màu sắc và độ tương phản ánh sáng. Cách thử nghiệm đơn giản nhất, vào ngày âm u, bạn cho ánh sáng đi qua một cửa sổ lớn vào 1 căn phòng màu trắng.Tiếp theo bạn có thể quan sát những thay đổi qua mô hình đơn giản như tôi đã dùng. Nó sẽ là điểm khởi đầu cho tất cả.

Một kiểu ánh sáng cửa sổ rất nổi tiếng đó là North Light (ánh sáng vào qua khung cửa mở đối diện hướng Bắc). Trước đây, các hoạ sĩ khó đạt được thành công trong ánh sáng nhân tạo, với cửa sổ luôn hướng về phía Bắc, ánh sáng hầu như không có sự thay đổi trong ngày. Nguyên nhân do mặt trời luôn ở hướng Nam (tối thiểu ở phần bán cầu Nam)  căn phòng chỉ nhận được ánh sáng khuyếch tán từ bầu trời  ánh sáng yếu, không có hướng hay bóng đổ rõ rệt. Với những căn hộ có cửa sổ hướng về phía Bắc, chất lượng ánh sáng trong nhà cũng chả khác gì nhiều so với chất lượng ánh sáng đến từ các khung cửa sổ không nhận ánh sáng mặt trời trực tiếp. Tuy những căn phòng này có tối hơn (do không thiếu ánh sáng mặt trời) nhưng ánh sáng rất dịu.

Mặc dù căn phòng cũng có ánh sáng mặt trời nhưng chỉ ảnh hưởng một vùng nhỏ. Hầu hết ánh sáng trên các bức tường và đồ đạc trong phòng đều nhờ vào ánh sáng phản xạ của mặt trời hay ánh sáng khuyếch tán từ chính cửa sổ. Để ý màu đỏ trên bức tường phía xa, có thể nó bị phản xạ bởi các bức rèm. Chúng ta cũng nhận thấy độ tương phản cao của ánh sáng mặt trời tạo vùng sáng rất rõ nét.

Đây là ảnh minh hoạ cho kiểu ánh sáng nhẹ chiếu qua khung cửa sổ. Bức hình chụp vào ngày âm u, cửa sổ đóng vai trò như một chiếc hộp khổng lồ chiếu sáng nhẹ nhàng cho hình ảnh em bé. Vật thể càng gần cửa sổ, ánh sáng càng mềm (tôi sẽ giải thích thêm trong phần 5). Chúng ta hãy để ý các cạnh bóng đổ, rất mờ, đôi khi nhìn không kỹ sẽ khó phát hiện ra. Sự chuyển đổi giữa ánh sáng và vùng bóng tối hầu như không nhận thấy.

Qua nhiều thế kỷ, kiểu ánh sáng nhẹ, đến từ một khung cửa sổ lớn này đựơc nhiều hoạ sĩ ưa chuộng (và ngày nay, nó vẫn được các nhiếp ảnh gia tận dụng do vẻ đẹp và độ tin cậy có thể biết chắc chắn hiệu quả trước của nó)..

Ánh sáng bóng đèn điện gia đình

Đây là thứ ánh sáng chúng ta gặp phổ biến nhất trong cuộc sống thường nhật. Nó đến từ nhiều kiểu đèn: loại bóng tròn chiếu từ phía trên, chiếu xiên. Đặc tính chung là chúng đều dùng loại bóng đèn sáng nóng.

Dây tóc bóng đèn thật ra có màu vàng/ da cam mạnh (tôi đã đề cập phần 1). Tuy nhiên, khi chúng ta nhìn vào lại thành ra màu trắng (hiện tượng này do bộ não của chúng ta đã lọc màu vàng  ta không cảm nhận được màu vàng của dây tóc bóng đèn khi nhìn trực tiếp. Thường nếu bạn đang chụp ảnh hay vẽ bức hình một chiếc bóng đèn phát sáng trong phòng, sẽ thật hơn nếu bạn để dây tóc bóng đèn màu trắng. Nếu bạn để dây tóc bóng đèn màu da cam sáng (như trên thực tế), trông sẽ kém thuyết phục hơn nhiều.

Nhưng bù lại, độ sáng của dây tóc bóng đèn khá đa dạng và khó đoán trước. Với các đồ vật thông thường, hầu hết ánh sáng bị khuyếch tán do hình dáng từng loại đèn, tạo nên nguồn sáng lớn và chiếu sáng mềm hơn.

Tuỳ thuộc vào không gian của mỗi căn phòng mà nhận được độ chiếu sáng khác nhau. Một số nhà tiêu biểu như phòng thay đồ hay Gara để xe thường chỉ lắp đèn bóng trần, không có trao đèn, khiến ánh sáng cứng và không hề hấp dẫn chút nào. Chúng ta có thể chấp nhận cho cách bày trí này vì dù sao cũng chả ai nán lại lâu, do vậy, người ta cũng chỉ cần quan tâm tới chất lượng chiếu sáng chứ không để ý mấy tới tính thẩm mỹ của không gian chiếu sáng.
Trong những gian phòng thời gian ở lại của mọi người lâu, người ta bắt đầu quan tâm tới chất lượng chiếu sáng, ánh sáng cần nhẹ nhàng và có sức hấp dẫn, phong phú hơn. Ví dụ như phòng khách (phòng chính trong nhà), bạn có thể thấy rất nhiều loại đèn kết hợp, tạo không gian thoải mái cho căn phòng. Tuy nhiên, chức năng chiếu sáng cũng rất quan trọng tại những căn phòng kiểu thế này. Ví dụ trong phòng ngủ, bên cạnh ánh sáng dịu cho giấc ngủ, đôi khi bạn bạn cũng cần ánh sáng vừa đủ để nằm đọc sách hay đang đêm thức dậy có viêc cần. Trong nhà bếp, ánh sáng rọi được bài trí làm sáng toàn bộ khu vực nấu nướng. Phòng tắm và các tấm gương cũng có thể tham gia vào chiếu sáng với một mục đích, chức năng nào đó.

Nhìn chung, ánh sáng dùng trong gia đình là sự kết hợp của cả tính thẩm mỹ lẫn chức năng sử dụng. Bóng đèn thường đi kèm với trao đèn đa dạng về kiểu dáng. Những trao đèn này đều được thiết kế nhằm làm dịu ánh sáng, chúng giúp che đi hình dáng thô trần của bóng đèn và làm mềm bóng đổ cứng đơn thuần của các bóng đèn nói chung.

Nhân tố quan trọng tiếp theo chúng ta cần xem xét đó là trong đặt nguồn sáng, nó sẽ làm mềm ánh sáng và bóng đổ. Ánh sáng từ các phòng khác nhau sẽ lan tràn sang không gian gần kề nó  Hiếm khi có gian phòng nào chỉ đơn thuần chịu ảnh hưởng một loại sáng. Một ví dụ tiêu biểu: Nếu bạn đang ngồi trong phòng khách với 4 hay 5 ánh sáng khác nhau, những ánh sáng này sẽ tạo nhiều vùng sáng nhỏ, hấp dẫn. Với nhà bếp thiết kế hiện đại, người ta cũng thường đặt nhiều hàng bóng rọi trên trần nhà.

Đặt nhiều nguồn sáng bóng đèn đồng nghĩ với nhiều loại bóng đổ --> ánh sáng rất thú vị với độ cứng mềm khác nhau. Kêt quả thể hiện rõ nhất trên các bề mặt phản xạ với hàng loạt bóng sáng. Có thể ánh sáng sẽ khác nhau về màu sắc, cường độ vì bản thân các bóng đèn càng già, độ chiếu sáng càng yếu dần và đỏ hơn.
Cuối cùng chúng ta cũng nên chú ý tới các thiết bị có khả năng phát sáng trong gia đình như: máy tính, TV hay lò vi sóng, bếp và rất nhiều những vật dụng khác.
Lời khuyên duy nhất tôi có thể đưa ra đó là bạn hãy thực hành bằng cách tự đặt số lượng đèn trong phòng, theo tưởng tượng từng người và bạn sẽ phát hịên ra hàng loạt điều thú vị..

Một cảnh nội thất tiêu biểu với vài nguồn sáng nhẹ nhàng. Bạn có thể thấy các trao đèn sử dụng làm mềm ánh sáng và hắt hướng lên tường để không tạo bóng đổ sắc. Trong ảnh này, tôi đã tăng thêm độ trắng cho đèn, giảm cảm giác màu cam toàn cảnh (trong thực tế thì ánh sáng dây tóc bóng đèn không như vậy) . Tuy nhiên, làm dịu bớt màu cam lại làm cho bức ảnh trông thuyết phục hơn, truyền tải đúng màu sắc mà mắt con người cảm nhận được.

Ánh sáng đặt trong các nhà hàng, cửa hiệu và trang trí nội thất mang tính chất thương mại.


Giống như với ánh sáng sử dụng trong gia đình, ánh sáng dùng với mục đích thương mại rất đa dạng, chủ yếu nhằm gây cảm xúc, đánh trực tiếp vào mắt người xem. Trong hầu hết các trường hợp, những nhà thiết kế đều cài đặt ánh sáng, đem lại cho những khách hàng cảm giác “muốn mua hàng”. Do vậy, phải rất cẩn thận nếu bạn có ý định thay đổi lại hệ thống đèn.
Ánh sáng trong các nhà hàng nhìn chung để dưới thấp, nhẹ. Nó có thể là sự tổng hợp của nhiều ánh sáng rọi khác nhau, làm nổi rõ từng cánh hoa hồng hay ngọn nến lung linh trên bàn. Rõ ràng không một nhà hàng nào là không muốn có điểm riêng so với các nhà hàng khác. Việc quan sát ánh sáng tại các nhà hàng là một cách tiếp cận rất hay nhằm tìm hiểu vấn đề chiếu sáng nội thất ảnh hưởng thế nào đến tạo cảm giác và không khí cho khung cảnh.

Một chi tiết quan trọng cần nói đến: Khi muốn thay đổi hệ thống chiếu sáng trong gia đình, bạn có thể tham khảo tại những nhà hàng hay quán bar, bạn sẽ thấy họ sử dụng số lượng lớn các bóng đèn để tạo bóng sáng phản xạ. Cách bài trí này làm lộ toàn bộ bề mặt phản xạ, từ từng con dao, cái đĩa. Cũng như với chiếu sáng trong gia đình, các nguồn sáng khác nhau sẽ cho nhiều màu sắc, cường độ ánh sáng, tạo những vùng sáng khắp nhà.

Các cửa hiệu khác nhau cần ánh sáng khác nhau nhưng chung quy vẫn cần tạo không khí cho căn phòng, làm nổi rõ mặt hàng bày bán. Hầu hết các cửa hàng ở phố chính dùng đèn tuýp thắp sáng tạo cảm giác sáng sủa, thoáng mát. Với mặt hàng chưng bày đặc biệt có lắp thêm đèn phụ
Nếu bạn đang định thay đổi lại không gian cho căn phòng, bạn nên cân nhắc tới chức năng của căn phòng là gì trước khi quyết định đặt ánh sáng cho nó.
Rõ ràng vấn đề quá rộng để có thể đề cập toàn bộ trong bài viết. Các bạn nên tự quan sát và chụp vài tấm hình với các góc độ cài đặt ánh sáng khác nhau để tham khảo.

Một nhà hàng tiêu biểu cho tạo ấn tượng không gian bằng cách sử dụng nhiều nguồn sáng, màu sắc phong phú, cảm giác thú vị lan toả khắp căn phòng.

Quan sát gần hơn, chúng ta hãy để ý có rất nhiều bóng sáng trên những chiếc ly, đây chính là phản xạ của đủ thứ ánh sáng trong phòng.

Ánh sáng trưng trong cửa hàng, tôi đã chỉnh lại màu sắc cho bức hình nhưng vẫn còn ánh sáng xanh. Bóng đổ của ghế đến từ nhiều nguồn sáng.

Ánh sáng huỳnh quang

Ánh sáng huỳnh quang thường được dùng trong những tình huống cần số lượng bóng lớns, màu sắc ánh sáng thường xanh lục. Nhưng như đã biết, trí não con người thường có xu hướng cân bằng màu trắng  khi nhìn bằng mắt thường, bạn sẽ cảm thấy nó thật kinh khủng. Chúng ta thường bắt gặp ánh sáng này tại công sở, nhà ga, những toà nhà công cộng và bất cứ nơi nào cần giảm chi phí hoạt động của bóng đèn.

Ánh sáng huỳnh quang gắn liền với không gian rộng, nhiều đèn  nhiều bóng đổ chồng chéo và bóng sáng đổ hình chữ nhật. Mật độ ánh sáng quy định độ sáng: các cửa hiệu dùng nhiều đèn để tạo không gian thoáng đãng, những nơi không mấy chú trọng tới ánh sáng như nhà dừng đỗ xe có thể để tối hơn.

Bức ảnh chụp ban ngày dưới ánh sáng huỳnh quang, bạn có thể nhận thấy bóng đổ màu xanh rất rõ.

Chiếu sáng hỗn hợp


Ánh sáng tổng hợp tự nhiên và nhân tạo thường xuyên xuất hiện không chỉ trong nhà mà còn bên ngoài môi trường tự nhiên, đặc biệt khi trời nhá nhem tối hoặc vào ban đêm. Ánh sáng hỗn hợp cho chúng ta những bức ảnh với màu sắc, cường độ ánh sáng rất thú vị, nhất là khi ánh sáng tự nhiên và dây tóc bóng đèn có màu xanh, da cam.

Vào buổi tối hay ban đêm, nếu bạn đặt 1 vật thể gần cửa sổ (không để rèm cửa che khuất), bạn có thể dễ dàng nhận thấy rất nhiều loại ánh sáng: nhân tạo có, tự nhiên có, tác động lên vật thể. Không chỉ trong nhà mà ngay cả ra bên ngoài, bạn cũng thường xuyên bắt gặp thứ ánh sáng này (trên đường phố). Ánh sáng chiếu xuống các toà nhà cũng rất thú vị, tạo sự tương phản ấn tượng với ánh sáng tự nhiên từ bầu trời.

Bản thân tôi cũng thường xuyên dùng loại ánh sáng tổng hợp cho các tác phẩm của mình bởi hiệu quả truyền cảm tuyệt vời mà nó mang lại.


Đây là hai bức hình mẫu tôi tự làm, kết hợp nhiều loại ánh sáng, tạo không khí và phối màu rất ngộ.

Màu ánh sáng ấm từ nhà quốc hội thiết kế rất hợp với ánh sáng tự nhiên buổi tối

Sự tổng hợp sắc màu ánh sáng: màu xanh của ánh sáng huỳnh quang trên các ô cửa pha trộn với ánh sáng từ bóng đèn và ánh sáng bầu trời.

Vật thể đặt gần cửa sổ chịu tác động ánh sáng cả trong lẫn ngoài môi trường.

Ánh sáng từ lửa, nến


Ánh sáng từ lửa ta nhìn thấy hàng ngày thậm chí còn đỏ hơn so với ánh sáng từ bóng đèn (mặc dù trong thực tế nhiệt độ màu của nó thấp hơn so với bóng đèn). Tuy nhiên não bộ con người không thể phân biệt được  ta thường thấy ánh vàng hay đỏ.

Một nhân tố khá quan trọng khác chúng ta cần xem xét đó là nguồn sáng của loại ánh sáng này, chúng thường đặt thấp hơn hẳn so với các nguồn sáng khác: Lửa dưới sàn (bếp lò, lò sưởi,…) hay nến đặt trên bàn…, trong khi đó đèn điện treo tít trên cao. Rõ ràng, nó sẽ gây ảnh hưởng lên nhiều thứ: từ bề mặt bóng đổ đến các bóng sáng. Cuối cùng chúng ta cũng cần biết: Nguồn sáng này thường xuyên di động (do ánh lửa luôn bập bùng).

Ánh sáng từ nến rất đỏ. Trong bức hình này tôi đã giảm nhiệt độ màu thực tế để giúp bức hình thật hơn (Bộ não của con người không có khả năng nhận biết những ánh sáng quá mạnh vì vậy chúng ta chỉ cảm thấy nó ấm áp).

Ánh sáng trên đường phố.


Ánh sáng trên đường phố có màu cam đậm (tối thiểu tại Anh nơi tôi đang sống), quang phổ hẹp đồng nghĩa với màu cam chủ đạo, không có cơ hộ cho các màu khác  mọi thứ chịu tác động thứ ánh sáng này đều có màu cam đơn sắc.
Giữa hai vật thể chịu tác động ánh sáng loại này sẽ có rất nhiều bóng đổ. Các vùng sáng nhỏ và chuyển màu tối rất nhanh, làm đường phố vào đêm có độ tương phản rất cao.

Đây là một trong những vị dụ điển hình cho chiếu sáng đường phố! Bạn có thể nhận thấy những dải màu hep, mọi thứ trù cỏ ra đều có màu da cam. Bóng đổ đa dạng, độ tương phản cao. Bầu trời sau những tán cây cũng màu cam do ảnh hưởng ánh sáng hắt lên từ thành phố. 

Ánh sáng nhiếp ảnh


Ánh sáng trong nhíêp ảnh thật ra chả liên quan gì đến vấn đề chúng ta đang bàn nhưng tôi vẫn muốn nói qua. Có rất nhiều ánh sáng sử dụng trong nghệ thuật nhiếp ảnh nhưng chung nhất vẫn là ánh sáng nhẹ Flash dùng chụp ảnh chân dung chân dung hay những bức hình khác. Loại ánh sáng này thường dễ nhận ra vì nó không có bóng đổ.
Bóng sáng rộng và bóng đổ nhẹ rất hay được sử dụng trong quảng cáo. Nó tạo cảm giác nhẹ nhàng, tập chung vào kích cỡ của vật thể. Vật thể lúc này đóng vai trò như những nguồn sáng khuyếch tán.

Các loại ánh sáng khác và những trường hợp đặc biệt

Hi vọng là tôi đã đảo qua hầu hết các loại chiếu sáng. Tuy nhiên,tôi không có ý định hướng dẫn các bạn tất cả các tình huống chiếu sáng, thay vào đó, tôi khuyến khích các bạn nên quan sát thật nhiều và tự tích luỹ kiến thức cho mình. Trong thực tế, với lần đầu quan sát đối với bạn rất khó khăn, nhưng vạn sử khởi đầu nan, đầu có xuôi thì đuôi mới lọt, vượt qua ngưỡng đầu sẽ giúp bạn có bước tiến tiếp theo.

Vì vậy hi vọng những gì trong bài viết này giúp bạn bổ sung một phần kiến thức nhỏ, xác định cách chiếu sáng trong những tình huống đặc biệt khác, những tình huống tôi không đề cập trong bài viết này. Ví dụ như khi bạn muốn diễn tả ánh sáng dưới biển, trong lớp đá ngầm ở vùng nhiệt đới
Ánh sáng sẽ từ đâu--> Ánh sáng sẽ phản xạ lại thế nào--> Màu sắc--> Độ khuyếch tán--> Bóng đổ-->...

Hi vọng những thông tin này sẽ là giúp ích cho các bạn trong quá trình tích luỹ kinh nghiệm thực tế. Học vẹt theo những kiến thông sáo rỗng thật chả có gì khó khăn (như tôi đã đề cập trong phần 3), không những thế còn quá lãng phí thời gian và công sức bởi khi bạn đã có chút thông tin có giá về ánh sáng, toàn bộ những khuôn mẫu định hình cũ này sẽ nhanh chóng bay biến đi hết.

Hãy tự mình quan sát, tự mình trải nghiệm! Đó mới thực sự là mục đích của bài viết này!.

PVst.

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review