THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2013

ĐIỆN ẢNH KỸ THUẬT SỐ


Từ khi ra đời và phát triển từ cuối thế kỉ 19, sau hơn 100 năm phát triển nhanh chóng, điện ảnh đã qua bao thăng trầm với những bước đi nhảy vọt. Kể từ khi ra đời, điện ảnh gắn liền với chiếc máy quay phim nhựa, cồng kềnh, thô cứng và bền bỉ. Ngày nay, những chiếc máy quay kỹ thuật số chuẩn điện ảnh ra đời và nó cũng đang được coi là một phần của điện ảnh kỹ thuật số. Điện ảnh kỹ thuật số được hiểu là những áp dụng kỹ thuật số trong điện ảnh. Ví dụ: Máy vi tính với phần mềm dựng phim số, máy chiếu phim kỹ thuật số chuẩn điện ảnh, thiết bị ghi hình kỹ thuật số chuẩn điện ảnh...
I. Nguyên lý tái tạo hình ảnh của máy quay kỹ thuật số
Chỉ tồn tại đến khoảng những năm 80 của thế kỷ trước xong nguyên lý thu lại hình ảnh qua ống kính trên bề mặt ống phát hình (đèn Vidicon) vẫn được coi là khởi nguồn của truyền hình đen trắng. Nguyên lý này áp dụng theo nguyên tắc biến đổi tín hiệu ánh sáng thành tín hiệu điện và hình ảnh quang học được chuyển đổi thành tín hiệu video.
.Ảnh: Hình ảnh đèn Vidicon

Sự ra đời của Sensor biến ánh sáng thành tín hiệu điện cũng là lời khai tử cho đèn Vidicon. Hoạt động trên nguyên lý tiếp nhận hình ảnh quang học qua ống kính máy quay rồi được tách thành 3 phần ánh sáng đơn sắc (Đỏ-Lục-Lam) bởi hệ thống lăng kính phân kỳ. Lợi dụng tính chất hạt của ánh sáng, người ta chế tạo ra tế bào quang điện với bề mặt dẫn gọi là các CCD. Cảm biến CCD (Charge-coupled device) và CMOS (Complimentary metal-oxide semiconductor) ra đời và là một trong những nguyên nhân bùng nổ của sự phát triển trong công nghệ máy quay kỹ thuật số. Chung một nhiệm vụ biến đổi tín hiệu ánh sáng thành tín hiệu điện song CCD và CMOS lại dùng công nghệ khác nhau và có những điểm mạnh yếu khác nhau.
Ảnh: Máy quay chuyên dụng Sony DVW-970 2/3-Inch 3-CCD.
Ảnh: Red One, máy quay giá rẻ được nhiều nhà làm phim kinh phí thấp ưa thích, máy sử dụng cảm biến CMOS.

Công nghệ Video (DV) ra đời và kèm theo nó là khái niệm truyền hình độ phân giải cao (HDTV). Năm 1968, hãng truyền hình nổi tiếng Nhật Bản NHK đã nghiên cứu truyền hình độ phân giải cao nhưng vì bị hạn chế về băng thông và các phương tiện nén, ép tín hiệu và chi phí quá cao mà nó chưa thể hoạt động. Sau khi triển lãm quốc tế IBC 92 ở Hà Lan được tổ chức, HDTV đã được nghiên cứu và phát triển rộng rãi ở Châu Âu, Bắc Mỹ và nhanh chóng lan ra toàn thế giới cho đến ngày nay, trong đó có Việt Nam.

II. Sự phát triển công nghệ kỹ thuật số
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ kỹ thuật số nói chung và máy quay kỹ thuật số nói riêng như một cú đấm vào nền Điện ảnh. Bộ phim Star War 2 được sản xuất năm 2002 là bộ phim Điện ảnh đầu tiên được ghi hình bằng máy quay kỹ thuật số (máy Sony HDW F900). Cho đến nay, những bộ phim được ghi hình như vậy chiếm phần lớn trong nền Điện ảnh do giá thành rẻ, thực hiện hậu kỳ không phức tạp, an toàn cho người làm phim... Gần đây phải kể đến những Lord Of The Rings, Avatar, Hugo, Life Of Pi,... Ở Việt Nam có thể điểm mặt như Chơi Vơi, Dành Cho Tháng 6,...

Hiện nay, các máy quay kỹ thuật số đã đạt được độ nét cao tương đương với hình ảnh phim nhựa. Dù có khác nhau về quy ước độ phân giải giữa Châu Âu và Mỹ. Mỗi nhà sản xuất thì lại có những tiêu chí kỹ thuật khác nhau, nhưng đều tựu chung một mức phấn đấu đó là sự tái tạo hình ảnh cũng như kích cỡ của phim nhựa. Dưới đây là chuẩn 4K+ của Arri :

- Số lượng điểm ảnh 2058 pixel chiều ngang x 1237 pixel chiều dọc., tương ứng với khuôn hình 12,35mm x 7,43mm của phim nhựa 16 mm.
- Số lượng điểm ảnh 4153 x 3112 pixel tương ứng với khuôn hình 24,92 x 18,67mm của phim nhựa 35 mm.
- Số lượng điểm ảnh 8746 x 3853 pixel tương ứng với khuôn hình phim 52,48 x23,01 mm của phim nhựa 65mm.

Các loại máy quay kỹ thuật số độ nét cao hiện nay đã góp phần tạo nên sự đa dạng trong Điện ảnh. Nổi lên là các nhà làm phim tác giả, kinh phí thấp. Không mất tiền phim, in tráng phim và đặc biệt là có thể xem lại trên hiện trường để có thể sửa chữa. Công việc hậu kỳ không cần scan phim nhựa thành tín hiệu số nữa mà có thể dựng trực tiếp bằng phần mềm. Đặc biệt, ta có thể lắp ghép các kỹ xảo số hoàn hảo trên phim.

2 năm gần đây, lễ trao giải Oscar vinh danh 2 bộ phim Hugo và Life Of Pi ở hạng mục quay phim xuất sắc nhất và hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất. Đây là một lời khẳng định về chất lượng của máy quay phim kỹ thuật số và cụ thể là Arri Alexa. Arri nổi tiếng với các thiết bị điện ảnh từ thời phim nhựa và các máy quay kỹ thuật số của Arri được sản xuất nhưng vẫn đồng bộ với các thiết bị trước kia.

Để giảm giá thành sản xuất phim, hai bộ phim trên được quay bằng máy quay kỹ thuật số sau đó được dựng hậu kỳ qua phần mềm trên bàn dựng. Nhanh hơn trước kia nhiều lần khi nếu muốn chuyển hình ảnh từ phim nhựa sang kỹ thuật số để làm kỹ xảo, ta phải mất rất nhiều công sức và tiền bạc cũng như thời gian để scan phim.

Điểm yếu của máy quay kỹ thuật số đó là việc tái tạo màu sắc. Khác với phim nhựa, ở phần hình ảnh thừa sáng và thiếu sáng, màu trắng và đen được tái tạo với độ tương phản thấp, khiến hình ảnh mất chi tiết và cảm giác về màu không tốt bằng phim nhựa. Ở phim nhựa, phần thừa và thiếu sáng được tái tạo trên mặt phim với những chi tiết được tạo bởi các phân tử bạc nên ta vẫn có thểm cảm nhận được hình ảnh.

Ở Việt Nam, những năm gần đây, có khá nhiều phim độc lập được thực hiển bằng máy quay kỹ thuật số. Nó là một yếu tố thúc đẩy sự phát triển cũng như sự đa dạng của điện ảnh Việt Nam. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, nó là sự ẩu thả của những người làm phim thị trường, thảm họa có thể kể đến như Bay Vào Cõi Mộng, Hello Cô Ba,... Dù có là phim nhựa hay kỹ thuật số thì sự cẩn thận, tỉ mỉ trong nghề nghiệp là không bao giờ được phép thay đổi.

Dù có phát triển đến mức gần đạt ngưỡng tiếp cận với cảm biến phim nhựa thì cảm biến trên máy quay video vẫn còn nhiều hạn chế. Người ta tính, trong video có khoảng 17 triệu màu sắc nhưng con số đó trên phim nhựa là 800 triệu. Phim nhựa 35mm có thể tái tạo độ tương phản ở mức 1000:1. Ở phim nhựa, phần sáng-tối, trắng-đen đều được tái tạo với sự biến đổi êm dịu mà không bị mất chi tiết như trên cảm biến ở máy quáy video.
Ảnh: Cảnh phim The God Father, nổi tiếng nhờ sự tương phản trong nghệ thuật ánh sáng, có lẽ chỉ có phim nhựa mới tái tạo hình ảnh tốt như vây

III. Công nghệ điện ảnh, hậu kỳ và chiếu phim kỹ thuật số
Công nghệ điện ảnh kỹ thuật số cho phép sử dụng tiện ích của máy dựng phim cùng các phần mềm dựng phim, thiết kế kỹ xảo để dựng phim, tạo ra kỹ xảo không có thật trên phim. Phim nhựa được scan và chuyển đổi thành tín hiệu số, được cắt phép trên bàn dựng và cuối cùng được chuyển thành hình ảnh trên bề mặt phim nhựa để công chiếu. Ở hướng ngược lại, phim được ghi lại bằng máy quay kỹ thuật số chuẩn điện ảnh được dựng trực tiếp bằng dữ liệu số sau ghi hình và cũng được in vào phim nhựa để công chiếu.
Ảnh bên: Sơ đồ công nghệ kỹ thuật số.

Thời gian sản xuất phim bằng máy ghi hình kỹ thuật số được tiết kiệm rất nhiều so với máy ghi hình truyền thống. Không tốn thời gian tráng phim, in phim rồi scan phim để dựng. Dữ liệu được đưa trực tiếp đến bàn dựng và sau khi dựng xong được in ngược lại phim nhựa để trình chiếu.

Từ khi sinh ra, hậu kỳ phim là điều tất yếu và khiến rất rất nhiều nhà làm phim đau đầu về cả yếu tố kỹ thuật lẫn nghệ thuật. Mới đầu, dựng phim đơn thuật là cắt ghép những đoạn phim nhựa lại với nhau thành một cuộn phim. Dần dần, nghệ thuật dựng phim ra đời với những thủ pháp dựng phim khác nhau. Kỹ xảo phim cũng vậy, nó ra đời bởi ông tổ Georger Méliès. Phim của ông được thiết kế kỹ xảo trực tiếp ngay trên máy quay phim và bản phim sau khi được in tráng, tỉ mỉ và thủ công từng hình một. Sau này, máy dựng và phần mềm dựng phim kỹ thuật số giúp ta có thể thiết kế nhanh và hoàn hảo hơn xong vẫn được thực hiện theo nguyên lý kinh điển trên. Hiện nay, với giá khoảng 5000$ là ta có thể sở hữu một bàn dựng phim cá nhân thuộc loại khá của Apple.
Ảnh: Máy Apple Mac Pro, thiết bị phần cứng được nhiều nhà dựng phim ưa dùng.

Máy chiếu phim hiện nay hiện đại hơn rất nhiều so với trước kia. Rạp chiếu phim cũng được nâng cấp với hệ thống phim 3D, 4D, 5D... Âm thanh nổi 7.1, 9.1... Với số lượng ghế ngồi ngày càng tăng dần 300, 400, 500 thậm chí là hàng ngàn chỗ. Màn ảnh rộng, hệ thống IMAX Cinema.
Ảnh bên: Hình ảnh rạp phim Megastar Mipec Tower, Hà Nội.
Thay cho lời kết 
Sự phát triển không ngừng nghỉ của Điện ảnh kỹ thuật số nói chung đang đưa nền Điện ảnh thế giới qua hết trang này tới trang khác nhưng có một điều sẽ không thể thay đổi rằng những trang sách đó chỉ nằm gọn trong một cuốn sách kinh điển và dù có thay đổi đến đâu thì mọi nguyên lý, phương thức hoạt động cũng như sự tái tạo vẫn cứ đi đến một đáp án đó là phim nhựa. Những nguyên lý tái hiện hình ảnh và màu sắc cũng như những thủ pháp tạo hình của điện ảnh phim nhựa sẽ luôn là bài học, đường dẫn cho các bước phát triển của điện ảnh kỹ thuật số hiện tại và trong tương lai.

Nguyễn Trung Kiên - Theo Đích Đến Blog

Thứ Năm, 18 tháng 7, 2013

21 tư thế tạo dáng chụp ảnh cưới đẹp [Phần 4]


Trước hết, chúng tôi xin nhấn mạnh rằng đối với nhiều nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp thì dịch vụ chụp ảnh cưới đã trở thành một lĩnh vực kinh doanh chính thức. Tất nhiên, đây là chủ đề lớn, bao hàm nội dung cực kỳ đa dạng và phong phú mà 21 tư thế được đề cập trong bài viết này chỉ là những gợi ý nhỏ ban đầu để bạn có thể chụp những bức ảnh cô dâu, chú rể chất lượng, sinh động như mong muốn.
Tư thế tạo dáng 1
Mảnh khăn trùm đầu của cô dâu chính là phụ kiện mang đến nét tinh tế, duyên dáng cho chủ thể khi chụp ở góc độ cận cảnh với gương mặt. Bạn nên điều chỉnh độ phóng to thủ công để điểm nổi bật trong tác phẩm tập trung vào đôi mắt cô dâu thay vì phần hoa văn trên mảnh khăn trùm đầu nếu sử dụng chế độ tự động của máy ảnh.
Tư thế tạo dáng 2
Bối cảnh dành cho bạn cơ hội sáng tạo nên bức ảnh tuyệt đẹp chính là chụp đôi uyên ương hoặc chỉ riêng cô dâu đang ngồi trong xe hoa.
Tư thế tạo dáng 3
Nụ hôn say đắm, lãng mạn của đôi uyên ương là kiểu ảnh không thể thiếu trong sự kiện này. Bạn cần chú ý chụp trọn vẹn gương mặt, đặc biệt là ánh mắt cả hai, nếu không bức ảnh của bạn trông sẽ cứng nhắc và không có cảm xúc.
Tư thế tạo dáng 4
Tư thế đơn giản, dễ thực hiện khi cô dâu, chú rể vui vẻ áp má và ôm nhau thật tự nhiên. Nên đặt bó hoa của cô dâu ở vị trí thích hợp, hướng về ống kính.
Tư thế tạo dáng 5
Một hình ảnh cũng rất dễ thương khác là chú rể ôm cô dâu từ phía sau, cả hai nhìn nhau thật lãng mạn hoặc nhìn vào ống kính. Hơn thế nữa, họ có thể hôn nhau để tạo nên một kiểu ảnh tràn đầy tình cảm ngọt ngào.
Tư thế tạo dáng 6
Hãy thử thay đổi một chút nhé, đề nghị cô dâu, chú rể áp sát vào nhau và chọn chụp ở góc độ hơi cao hơn, bạn sẽ có được bức ảnh mới lạ, độc đáo.
Tư thế tạo dáng 7
Vào thời điểm thích hợp, hãy yêu cầu cô dâu, chú rể hôn nhau để chụp ảnh ngay trong lễ cưới. Đây cũng là một ý tưởng thú vị cho những bức ảnh lưu giữ lại ngày vui đấy, và họ sẽ không phàn nàn đâu!
Tư thế tạo dáng 8
Nếu có điều kiện, hãy tổ chức để đôi uyên ương được chụp vài kiểu ảnh ngoại cảnh. Nên chụp ở khoảng cách xa với phông nền là một không gian thật rộng mở, thoáng đãng.
Tư thế tạo dáng 9
Tư thế đơn giản và khá trang trọng, mang đến cảm giác nhẹ nhàng, ấm áp.
Tư thế tạo dáng 10
Với tư thế chú rể bế cô dâu, tuy dễ sắp xếp, điều chỉnh nhưng quan trọng là góc độ mà bạn chọn lúc bấm máy phải chính xác sao cho gương mặt của cả hai được thể hiện trong ảnh thật sắc nét, rõ ràng.
Tư thế tạo dáng 11
Và tư thế trên không chỉ thích hợp để chụp ảnh từ phía xa mà còn rất hiệu quả khi bạn lấy cận cảnh.
Tư thế tạo dáng 12
Tư thế cô dâu ngã vào vòng tay chú rể như thế này trông hơi “kịch” một chút nếu cả hai nhiệt tình thể hiện như thật thì chắc chắc bức ảnh của bạn sẽ rất biểu cảm, rất thu hút.
Tư thế tạo dáng 13
Thật ra, ảnh cưới không nhất thiết lúc nào cũng phải thật nghiêm túc, trang trọng, vì vậy đừng ngại tạo ra những hình ảnh, tình huống vui nhộn như để cô dâu, chú rể cởi bỏ giày và chạy vòng quanh khi chụp ảnh.
Tư thế tạo dáng 14
Một cơ hội cần nắm bắt trong quá trình tiến hành công việc là chụp ảnh đôi uyên ương từ phía sau.
Tư thế tạo dáng 15
Tư thế làm toát lên sự hài hước, tươi trẻ khi cô dâu và chú rể hôn nhau say đắm. Cần bảo đảm rằng chiếc váy cưới của cô dâu giữ được dáng thướt tha, xòe ra một cách tự nhiên, tránh bị vướng hay cuốn lại dưới chân chú rể.
Tư thế tạo dáng 16
Hình ảnh diễm lệ, lộng lẫy cho bức chân dung của cô dâu. Để chụp ảnh này, cô dâu nên ngồi trên mặt đất hay một vật dụng nào đó thật thấp, áo cưới trải quanh thật nhẹ nhàng, duyên dáng. Nên chụp ảnh từ trên xuống trong lúc chủ thể khẽ ngước nhìn lên.
Tư thế tạo dáng 17
Tư thế đơn giản, vui tươi khi cô dâu, chú rể cùng chạm cốc chamgpane. Để thêm nét mới cho bức ảnh bạn nên thể hiện sự tập trung vào những chiếc cốc bằng cách chụp chúng ở khoảng cách gần, còn hình ảnh cô dâu chú rể được làm mờ đi.
Tư thế tạo dáng 18
Một cách xử lý khác nhằm phát huy khả năng sáng tạo với bóng ảnh. Hãy sử dụng khẩu độ lớn nhất có thể để tạo ra một khoảng cách tách biệt chú rể và cô dâu. Lấy cô dâu làm trung tâm của tác phẩm và để hình ảnh chú rể hơi mờ nhạt ở phía sau.
Tư thế tạo dáng 19
Đôi uyên ương khiêu vũ cùng nhau cũng là một kiểu ảnh không thể thiếu trong bộ ảnh cưới. Bạn nên chụp ngay khi cả hai hướng về ống kính để gương mặt mỗi người đều rõ nét. Họ có thể nhìn nhau hoặc cùng nhìn về phía máy ảnh.
Tư thế tạo dáng 20
Để có được những bức ảnh cưới thú vị, mới mẻ bạn không nên chỉ chú ý đến cô dâu, chú rể vì bên cạnh đó còn có rất nhiều những vật thể có ý nghĩa, biểu trưng cho hạnh phúc lứa đôi sẽ làm cho album ảnh thêm hấp dẫn. Và bạn hãy thử chụp riêng từng thứ xem nhé, chẳng hạn như bó hoa cưới, trang sức, quần áo, ly rượu champagne, nhẫn cưới và cả xe hoa nữa.
Tư thế tạo dáng 21
Điều cuối cùng chúng tôi muốn lưu ý lại không liên quan đến các tư thế khi chụp ảnh mà chỉ là ý tưởng về xử lý hậu kỳ. Hẳn là bạn đã chụp được rất nhiều ảnh rồi, vậy nên bạn hãy cắt ghép các chi tiết lại với nhau để tạo nên một vài bức ảnh mới thử xem. Ví dụ như chọn lọc hoặc dời chủ thể từ bức ảnh khác đặt vào để cân bằng bố cục; sử dụng các hiệu ứng lọc sáng hoặc chỉ đơn giản chuyển sang ảnh trắng đen cũng mang đến cho ta một bức ảnh mới nổi bật hơn, hoàn hảo hơn. Những bức ảnh cắt dán như thế chắc chắn sẽ rất mới lạ trong mắt người xem.
Hãy tham khảo thêm những bài viết trước mà RGB đã giới thiệu nhé, đặc biệt là bài chụp ảnh cặp đôi, trong đó sẽ có rất nhiều tư thế thích hợp áp dụng đối với cô dâu, chú rể. Và dĩ nhiên các hướng dẫn cơ bản khi chụp ảnh nam giới hay phụ nữ cũng rất có ích. Chắc chắn bạn sẽ tìm được gợi ý có giá trị trong quá trình sáng tạo của riêng mình.

Hồng Ngọc biên dịch theo DPS | RGB.vn

Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

“Hiệu ứng kỹ xảo” và sự phũ phàng của điện ảnh


Sự sụp đổ của R&H, công ty chuyên làm về kỹ xảo, và cuộc đình công của gần 500 người hoạt động trong lĩnh vực hiệu ứng hình ảnh khiến người yêu điện ảnh giật mình nhìn nhận lại thực trạng làm phim hiện nay.
Tại đêm trao giải Oscar lần thứ 85 hồi tháng hai, một điều trớ trêu bậc nhất xảy ra – trong khi bên trong nhà hát Dolby, Cuộc đời của Pi gặt hái những thành công rực rỡ với ba tượng vàng thì ở bên ngoài, cuộc đời của gần 500 người góp phần tạo ra tác phẩm này lại không biết đi về đâu. 483 con người này đều hoạt động trong lĩnh vực VFX (Visual Effect – Hiệu ứng hình ảnh) và biểu tình do bức xúc trước việc hãng Rhythm & Hue (R&H), một trong những biểu tượng về làm kỹ xảo tại Hollywood, phải tuyên bố phá sản hơn một tuần trước đó.
Gần 500 người đình công khi công ty chuyên làm về kỹ xảo R&H (Rhythm & Hues) phá sản.

Những nghịch lý Hollywood

Hẳn nhiều người sẽ đặt câu hỏi tại sao một hãng phim sản xuất hình ảnh cho bom tấn như Life of Pi – tác phẩm đã gặt hái gần 600 triệu USD trên toàn cầu – lại phải tuyên bố phá sản ngày 11/2 do hết kinh phí và không đủ tiền trả lương cho nhân viên? Không chỉ R&H, nơi từng đem tới những màn kỹ xảo mãn nhãn trong X-Men, The Lord of the Rings, The Hunger Games mà còn nhiều tên tuổi nữa trong lĩnh vực này tại Hollywood như Pixomondo (từng đoạt Oscar 2012 với Hugo), Digital Domain (Titanic, Avatar, Transformers, Pirates of the Carribean)… đều đã và đang rơi xuống vực thẳm.
Những cảnh quay hoành tráng nhất của “Life of Pi” thực hiện trong trường quay.

Khi lên bục nhận giải Oscar “Đạo diễn xuất sắc” cho Life of Pi, đạo diễn người Đài Loan, Lý An, gửi lời cảm ơn tới “3.000 con người đã giúp sức tạo ra bộ phim này” mà không hề nêu tên cá nhân hay tập thể hãng R&H – xưởng phim giúp cho câu chuyện phiêu lưu của Yann Martel được tái hiện đẹp và kỳ vĩ đến mức choáng ngợp. Ông thậm chí còn khiến những người làm VFX cảm thấy bức xúc khi nói “tôi từng muốn bộ phim được làm ra rẻ tiền hơn”.

Không phải những chiếc máy tính tối tân với bộ xử lý hàng đầu mà công sức được bỏ ra trong hàng trăm giờ liền của các kỹ thuật viên, kỹ sư trong đoàn làm phim mới là đáng giá nhất. Trong lá thư ngỏ từ xưởng phim Zoic, cùng làm lĩnh vực như R&H thì với khung cảnh mê hồn trong Life of Pi và các giải thưởng mà bộ phim được nhận, cái giá Lý An phải trả “vẫn còn là quá hời” và câu nói trên của ông “đã đụng tới lòng tự ái của giới VFX”.

Sự ghi nhận duy nhất mà hãng R&H có được trong đêm Oscar là khi một thành viên của xưởng phim này – nhà chỉ đạo hình ảnh Bill Westenhofer – bước lên bục nhận Oscar “Hiệu quả hình ảnh” cho Life of Pi. Trong bài diễn văn cảm ơn được chuẩn bị sẵn, Westenhofer đã muốn nêu cao ý thức của Hollywood về tình hình của giới làm kỹ xảo song đã bị ban tổ chức Oscar “chặn họng” một cách không thương tiếc khi cho phát nhạc nền phim Jaws trong lúc ông vẫn đang phát biểu.

Westenhofer đã không dừng lại mà vẫn tiếp tục nhắc tới hãng R&H cùng tình hình tài chính khó khăn của họ, trước khi micro của ông bị tắt. Ban tổ chức chương trình không muốn sự kiện điện ảnh được chú ý nhất trong năm và tường thuật trực tiếp tới hàng trăm triệu khán giả toàn cầu có liên quan tới hình ảnh một xưởng phim phá sản, song hành động của họ lại là vết nhơ lớn nhất Oscar năm nay.
Cảnh cậu bé Pi và con hổ ở trên trường quay (trên) và khi đã qua xử lý hiệu ứng và lên phim

Đã đến lúc người quan tâm tới điện ảnh phải giật mình nhìn vào thực tại phũ phàng của giới làm VFX ở Hollywood cũng như đi tìm nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ này. Có rất nhiều lý do dẫn tới sự sụp đổ của R&H, như những công việc thủ công giờ đã được chuyển tới thực hiện tại Ấn Độ hay Trung Quốc, những nước có nguồn nhân lực dồi dào với chi phí rẻ hơn nhiều so với Mỹ; hay tính thiếu ổn định trong công việc (không phải lúc nào các hãng VFX cũng có phim để làm)…

Song quan trọng nhất có lẽ là bởi VFX không có một công đoàn – đơn vị đáng lẽ ra sẽ lên tiếng thay cho những bức xúc của người lao động. Chính vì lẽ đó mà không phải ai cũng “là một phần của Pi” như biểu ngữ được giăng lên trong cuộc biểu tình, tại một Hollywood mà tiền được đổ về túi của những nhà đầu tư quyền lực thay vì các nhân công phải đổ mồ hôi và chất xám để tạo ra sản phẩm. Trên màn ảnh, VFX là vô hình còn trong cuộc sống, vấn đề các kỹ thuật viên là hữu hình, nhưng không có một tổ chức nào đứng ra đòi lại công bằng cho họ.

VFX là gì?

Trong thời gian gần đây, người hay theo dõi thông tin điện ảnh trên Facebook từng bắt gặp những hình đại diện chỉ một màu xanh lá – một cách ủng hộ giới VFX được khởi xướng từ Hollywood. Trong điện ảnh, truyền hình hay cả những MV, phông nền màu xanh lá hoặc nước biển thường xuyên được sử dụng bởi các màu này chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp trong hình ảnh thực tế, giúp cho các kỹ thuật viên dễ dàng xóa chúng đi và lồng ghép những khung nền khác vào. Đó chính là công đoạn “biến điều không thể thành có thể”, thứ khiến cho VFX trở nên thiết yếu với gần như mọi bộ phim hiện nay.

VFX không chỉ gói gọn trong việc xử lý hình ảnh qua máy tính mà còn bao gồm nhiều thứ khác như hiệu ứng cháy nổ (hiện diện trong mọi bộ phim hành động), nắm bắt hình ảnh (những King Kong, Gollum nổi tiếng trên phim đều được dựa trên cử động của một diễn viên) hay những đóng góp thầm lặng như làm ánh sáng trường quay, vẽ tranh nền…
Đa số cảnh trong bom tấn “Avatar” đều phải nhờ cậy tới VFX.

Thử tưởng tượng một The Avengers không có những màn bay lượn chiến đấu của các siêu anh hùng, một Die Hard không có các cảnh cháy nổ hoành tráng, một thế giới Harry Potterkhông còn các hiệu ứng ma thuật… để hiểu được tầm quan trọng của VFX. Sự kỳ diệu của VFX được thể hiện trong Life of Pi khi chú hổ Richard Parker oai dũng thực chất không hề tồn tại mà được mô phỏng từ cử động của 4 con hổ thật và được tổng hợp, xây dựng lại nhờ máy tính. Trước cửa nhà hát Dolby, nơi diễn ra Oscar, một người biểu tình của hãng R&H lên tiếng: “Chúng tôi đã xây dựng ra thành phố này (Los Angeles) cùng mọi thành phố khác mà các bạn thấy trên phim ảnh, truyền hình. Tất cả đều nhờ VFX”.

VFX tại Việt Nam

Nếu như Hollywood vừa phải chứng kiến sự ra đi của một xưởng phim kỹ xảo thì làng điện ảnh Việt Nam cũng phải chịu những tổn thất lớn khi nghệ sĩ khói lửa Lê Minh Phương đã về cõi vĩnh hằng. Cái chết của Phương “khói lửa” – cái tên hàng đầu trong lĩnh vực của ông – cùng gia đình và hàng xóm lại tới từ những đạo cụ mà ông cất trong nhà.

Đây thực sự là một hồi chuông cảnh tỉnh cho những người có trách nhiệm khi mức độ quan tâm, đầu tư cho VFX (trong trường hợp này là an toàn lao động) chưa thực sự thấu đáo. Vẫn biết là người nghệ sĩ quá cố đã bất cẩn khi mang thuốc nổ về nhà, song đó là do hoàn cảnh bắt buộc với một người làm trong nhiều đoàn làm phim khác nhau, với khó khăn trong việc vận chuyển, trông giữ đạo cụ.
Vụ “Phương khói lửa” để lại nhiều thương tiếc và nỗi buồn cho giới làm phim Việt Nam

Nhìn xa hơn là việc dàn dựng các cảnh cháy nổ tại phim ảnh Việt Nam hiện nay vẫn được làm một cách thủ công, đầy nguy hiểm thay vì thực hiện qua kỹ xảo máy tính. Những cảnh sử dụng lửa như trên đều rất nguy hiểm nhưng các đạo diễn dường như vẫn chưa đủ tin tưởng vào tay nghề của giới làm VFX máy tính trong nước. Các bộ phim có nhiều kỹ xảo hay cảnh cháy nổ của Việt Nam thời gian gần đây như Mùi cỏ cháy, Thiên mệnh anh hùng… đều được đem sang Thái Lan để thực hiện hậu kỳ.

Điểm qua các hãng thực hiện hậu kỳ hay kỹ xảo hiện nay tại Việt Nam, có thể thấy một số cái tên như Film Ninja Production, Panamotion… với nhiều clip quảng cáo hay video ca nhạc với chất lượng chuyên nghiệp cao và hiệu ứng không thua gì các sản phẩm nước ngoài. Trên Youtube, có thể bắt gặp không ít video do các nhà làm phim nghiệp dư có kỹ xảo vô cùng ấn tượng, đẹp mắt – hầu hết đều là thành quả của sự tự học hỏi.

Tuy nhiên, vẫn chưa có một phim điện ảnh nào với kỹ xảo hoàn toàn “made in Việt Nam” để lại ấn tượng với khán giả. Để có được một sản phẩm đáng mơ ước như vậy, cần nhiều yếu tố như sự quan tâm, đầu tư đúng mực của những người có trách nhiệm và tâm huyết với điện ảnh nước nhà, sự tin tưởng và phối hợp ăn ý với đội ngũ làm VFX của các nhà làm phim và dĩ nhiên là cả cố gắng của người làm nghề.

Theo VnExpress / Thịnh Joey - Đích Đến

Nghề làm kỹ xảo điện ảnh [Phần 2]


Những bài viết trong đây được chúng tôi tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau, hy vọng giúp các bạn hình dung được một phần nào đó về kỹ xảo trong điện ảnh cũng như các khái niệm liên quan.


Để có một bộ phim hay yếu tố cốt lõi đương nhiên là con người, không phải là máy móc, thiết bị hay công nghệ. Một bộ phim hấp dẫn cần những tài năng biên kịch, đạo diễn, diễn viên, và cả của chuyên gia hình ảnh-âm thanh nữa… Nhưng rõ ràng là công nghệ, các công cụ, phương tiện hiện đại như kỹ thuật số để biến những ý tưởng độc đáo, chất xám của con người thành những nét hấp dẫn, cuốn hút của bộ phim.

Phim truyền thống
Suốt gần 50 năm lịch sử điện ảnh cách mạng Việt Nam, hầu hết những đột phá, nỗ lực trong hình thức thể hiện phim đều dừng lại ở những thao tác cắt dán hết sức đơn giản. Lác đác đôi ba phim cũng đưa kỹ xảo vào, nhưng chỉ ở mức giản đơn.

Bành Hải, Hãng phim truyện Việt Nam cho biết: “Các bạn biết là những hình ảnh trong phim truyện Việt Nam hiện nay rất thật thà. Quay ở ngoài đời như thế nào thì dùng như thế, hoàn toàn thiếu những kỹ xảo máy tính.

Chỉ đơn giản tên phim, họ muốn dùng những chuyển động, họ cũng không thể nào làm được bởi vì làm bằng tay. Trước đây khi chúng tôi làm phim, quy trình cũ vẫn là phim nhựa. Thế thì chúng tôi phải chạy song song phim nhựa đó với lại những thiết bị ghi âm thanh, trước đây là phim, từ nay là máy tính thì nó có một điều phức tạp là quá trình tìm hình đó rất là lâu vì dù sao đó cũng là thời gian thực, phải tua phim đến điểm cần thiết để làm”.

Với cách làm phim truyền thống, là cách mà hầu hết các nhà sản xuất phim Việt Nam đang áp dụng, quá trình hậu kỳ cho phim được thực hiện bởi các phòng sản xuất phim hay còn gọi là film lab: phim âm bản sau khi tráng rửa, được cắt, ghép nối và sử dụng các kỹ xảo quang học.

Bản phim âm bản hoàn tất được nhân ra thành nhiều bộ phim dương bản để đem trình chiếu tại các rạp.


Với phương pháp truyền thống và cổ điển như vậy, thời gian cho việc xử lý, cắt dựng phim khá chậm chạp, lại có độ phức tạp cao. Màu sắc của phim khi trình chiếu bị hạn chế do phụ thuộc hoàn toàn vào kinh nghiệm của đạo diễn hình ảnh trong lúc quay. Hơn nữa, trong quá trình âm thanh có thể sử dụng những hiệu quả của âm thanh, ví dụ tạo ra những tiếng vang, tiếng… hoặc những tiếng khác đòi hỏi những thiết bị hỗ trợ bên ngoài và rất đắt tiền.

Tương lai gần đầy hứa hẹn

Năm 1993, công nghệ xử lý phim bằng kỹ thuật số xuất hiện khi hãng Kodak giới thiệu định dạng hình ảnh kỹ thuật số Cineon.

Đến bây giờ, vẫn có người nghĩ rằng đó là cuộc chơi của điện ảnh nghiệp dư, kts làm sao có thể sánh được với chất lượng phim nhựa!

Nhưng gần một thập kỷ qua, điện ảnh đã bị cuốn vào cơn lốc số hoá, bước những bước dài trong kỹ nghệ xử lý hình ảnh, âm thanh nhờ kỹ thuật số. 10 năm trước thì việc chuyển từ số sang phim là không thể nhưng giờ đây với sự hỗ trợ của công nghệ mới cùng với tốc độ của máy tính ngày một nhanh hơn, mạnh hơn, chúng ta đã có thể chuyển từ video số sang phim nhựa.

Điện ảnh đã xuất hiện khái niệm số hoá và nhu cầu những người làm phim chuyển sang số hoá là rất cao. Hàng loạt các lợi ích và cơ hội mới mà ngành công nghiệp điện ảnh trên toàn thế giới này khai thác được nhờ kỹ thuật số: thu ngắn vòng đời sản xuất phim từ tiền kỳ, hậu kỳ cho đến phát hành, trình chiếu phim… lượt lượt tiếp bước theo nó.

Thị trường Việt Nam mới được mở cửa, cho nên những thông tin về việc chuyển từ kỹ thuật số thành phim nhựa chiếu rạp còn mới mẻ. Nhưng đó là tất yếu.

(Theo VTV)

Một “núi thóc” trơ xương chờ… gỉ!
2,6 tỷ đồng vào những năm đầu thập niên chín mươi có thể mua được cả “núi thóc” lớn. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng nhà nước vẫn quyết định đổi số thóc đó lấy một cái máy làm kỹ xảo điện ảnh để mong mỏi và đòi hỏi điện ảnh phát triển mạnh hơn nữa, nhanh hơn nữa… So với kỹ thuật điện ảnh thế giới lúc đó, cái máy này quả không tệ vì nó có rất nhiều công dụng giúp cho trí tưởng tượng của các đạo diễn đỡ… ngây ngô. Tưởng như các đạo diễn phải đổ xô đến “vật báu” này nhưng hơn mười năm qua chỉ có ba bộ phim có dùng “chút xíu” kỹ xảo từ báu vật này… Hỏi ra mới biết các đạo diễn hầu như không biết sử dụng máy!

Kỹ xảo điện ảnh là một phần không thể thiếu của nền điện ảnh hiện đại. Thực ra, xét về nghệ thuật truyền thống, nghệ sĩ không tìm nổi cách diễn đạt tự nhiên mà phải dùng đến kỹ xảo thì đó đã là một thất bại. Tuy nhiên do sự tiếp nhận mỹ cảm của công chúng từ điện ảnh hoàn toàn khác với các loại hình nghệ thuật khác nên kỹ xảo điện ảnh được nhìn nhận ở hướng tích cực hơn. Điện ảnh dành cho công chúng sự cảm nhận và hiểu bộ phim gần như tức thời nên “hiện thực” nhiều khi phải vượt quá giới hạn của mình để “đập” thẳng vào tâm hồn công chúng.

Các đạo diễn cứ than thở về kỹ thuật làm phim của nước nhà lạc hậu nhưng họ quên, hay họ không được biết đến một cái máy kỹ xảo vẫn nằm chờ phim ở Hãng phim truyện Việt Nam. Chắc chắn là họ biết rất rõ vì đồng nghiệp của họ, đạo diễn của các phim Tình Yêu Thần Nước, Dã Tràng Xe Cát… đã dùng chiếc máy này. Trước khi biết câu chuyện “lạc loài” về chiếc máy, chúng ta cùng trò chuyện với ôngNguyễn Văn Nam, kỹ sư kinh tế điện ảnh và vô tuyến truyền hình, giám đốc Hãng phim truyện VN.

*…Thưa ông, tạo sao các bộ phim của chúng ta không dùng tới máy kỹ xảo trong khi điều đó có thể giúp các đạo diễn bớt những cảnh quay vụng về?

- Thứ nhất là không phải bộ phim nào cũng cần đến kỹ xảo. Thứ hai làm kỹ xảo mất nhiều tiền lắm, kinh phí ở đâu ra. Hơn nữa, nếu có kinh phí thì ai biết dùng cái máy này!

* Các nhà làm phim chứ ai?

- Không phải ai cũng biết dùng cái máy này để làm ra các cảnh kỹ xảo. Khó lắm. Ví dụ trong phim Dã Tràng Xe Cát, đạo diễn dùng máy để làm cảnh Dã tràng từ từ xuống nước và phía dưới sủi bọt lên.

- Kỹ xảo như thế thì bất cứ đoạn phim quảng cáo nào chẳng làm được, cần gì đến máy kỹ xảo.

- Quảng cáo là dùng đến kỹ thuật video và máy tính, còn đây là phim truyện nhựa kia mà.

* Nhưng tại sao chúng ta không đào tạo một đội ngũ chuyên dùng cái máy kỹ xảo này?

- Đào tạo thế nào. Không phải ai đào tạo cũng có thể làm kỹ xảo điện ảnh được. Các đạo diễn cũng có lúc cần đến cái máy này nhưng không biết cách tạo ra các cảnh kỹ xảo. Cuối cùng, bây giờ nó chỉ làm nhiệm vụ là làm tiêu đề phim!

… Điều mấu chốt trong cuộc nói chuyện này là các đạo diễn không dùng đến cái máy này vì hai điều cơ bản; thứ nhất họ sợ kinh phí làm phim sẽ bị “đội” cao và như thế công sức của họ (tính theo tiền) bị giảm xuống đáng kể, thứ hai là hầu hết trong số họ đều không biết dùng chiếc máy này để tạo ra những cảnh kỹ xảo.

Lý do thứ hai thật đáng kinh ngạc. Chúng ta mua đổ một “núi thóc” ra và trang trọng, háo hức, hy vọng “rước” một cái máy kỹ xảo về để chấn hưng nền điện ảnh hiện đại. Nhưng các đạo diễn – những nhân tố quyết định sự hưng vượng ấy lại không biết… dùng nó như thế nào. Tuy nhiên đó là mặt kỹ thuật, chúng ta có thể học được. Nhưng ngay điều đó các nhà quản lý cũng không nghĩ tới và có nghĩ tới thì cũng ngần ngại nói rằng, không phải ai học rồi cũng tìm ra cách dùng máy kỹ xảo điện ảnh!

Công chúng có nhớ đã từng xem hai bộ phim dùng kỹ xảo kể trên không! Chắc chắn câu trả lời là không. Một núi thóc đổ ra và chỉ giúp làm vài cảnh “sủi bọt” ở một hai bộ phim “không ai còn nhớ”, không có tác động nào vào đời sống điện ảnh nước nhà thì quả là chúng ta đã “chơi sang”. Nhưng nếu đó là tiền của cá nhân thì là chuyện khác, ở đây ai cũng biết, cái máy đó là tài sản quốc gia. Như vậy, trước khi chúng ta long trọng “rước” tiếp một hệ thống máy móc nào về, mong rằng các cơ quan chức năng phải biết rõ nó sẽ đạt hiệu quả tới đâu và ai dùng nó. Đây chỉ là một bài học trong vô số bài học khác mà các nhà quản lý điện ảnh, các nhà làm phim phải học lại.

Nhưng tôi cho rằng lý do thứ hai không quan trọng lắm. Thậm chí không tồn tại lý do này. Kỹ thuật phát triển. Ngay một người bình thường, trên máy tính cá nhân của mình cũng có thể tạo ra vô số các cảnh “kỹ xảo” ly kì không kém các bộ phim hiện đại. Họ chỉ thua kém các nhà làm phim là không biết thể hiện ý tưởng nghệ thuật rõ ràng, mạch lạc thôi. Chúng ta không thể nói rằng các đạo diễn không biết dùng máy kỹ xảo được. Đó là điều phi lý và nực cười (Tôi có hỏi một số đạo diễn, họ cười phá lên và… im lặng). Như vậy lý do mà cái máy nằm chờ… gỉ nằm ở chỗ khác.

Chúng ta chẳng phải cất công ‘lặn lội” tìm đâu xa vì lý do đó chính là lý do thứ nhất. Nếu làm kỹ xảo thì bộ phim sẽ “gọn gàng” hơn, “khớp” hơn, tưởng tượng bớt ngô nghê hơn. Nhưng như ông Giám đốc hãng phim truyện VN đã nói và dù không nói, chúng ta cũng biết, tiền bạc ngăn không cho chiếc máy này “kết duyên” với các bộ phim.

Như vậy, trong nhiều điều làm cho nền điện ảnh hiện đại Việt Nam tẻ nhạt thì chúng ta thấy rõ rằng, những người hiến thân thực sự vì nghệ thuật điện ảnh quá ít mà chủ yếu là những người làm công ăn lương. Mà đã làm công ăn lương thì “lương “càng cao càng tốt chứ sao! Điện ảnh Việt Nam đành chờ một thế hệ mới “hiến thân” vì nghệ thuật thực sự vậy.

(Theo VietNamNet)

‘Bí mật’ của những cảnh quay khói lửa

Bánh mì mốc và mùn cưa là hai chất liệu chính được sử dụng trong cảnh bom nổ. Các hoạ sĩ thiết kế tiết lộ rằng, họ phải mua khá nhiều bánh mì về làm cho mốc lên để giống màu đất (và để các diễn viên không lấy ăn).

Sau đó họ xé vụn trộn với chất nổ và một số thứ khác như đất đã được lọc ky sỏi, bụi than và mùn cưa. Quả nổ được chôn xuống một cái hố, khi giật kíp, quả nổ tung lên. Đất bắn ra mịn như ném bom thật. Hình ảnh đẹp mà không hề gây sát thương.

Những miếng xốp cũng được đưa vào các cảnh quay này sau khi đã được nhuộm đen. Trên màn ảnh, chúng được nhìn thấy như những mảnh vỡ văng tứ tung, sẵn sàng giết chết ai đó rủi ro trúng phải. Thực tế thì xốp rất nhẹ, không đủ khả năng gây nguy hiểm.

Bom nổ, dĩ nhiên sau đó phải có lửa cháy và khói đen mịt mù. Dầu apatits, xăng lập tức được huy động để tạo ra những đám cháy rừng rực, những cột khói cao đến 20 m. Lúc này thì độ nguy hiểm bắt đầu nhích lên khỏi vạch số 0. Nếu không cẩn thận, tai nạn dễ dàng xảy ra. Chính vì thế, khi dựng một cảnh chiến, các hoạ sĩ thiết kế phải “bày binh bố trận” hết sức tỉ mỉ và công phu. Vị trí của từng quả nổ được vạch ra một cách chính xác trên sơ đồ. Quả nổ nào kích trước, quả nổ nào kích sau được xác định và phân công cụ thể.

Công việc này hết sức quan trọng. Trước hết là để đảm bảo an toàn tối đa cho các diễn viên trong những cảnh quay phải chạy đi chạy lại. Hai là để tạo ra hiệu ứng hình ảnh hoàn chỉnh nhất, cho người xem cảm giác như được chứng kiến một cuộc chiến thực sự chứ không phải là giả tạo. Như trong phim Dòng sông phẳng lặng về cuộc tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, có cảnh vị sư tự thiêu trên đường phố Huế. Các nhà làm phim đã làm hình nộm rồi tưới xăng lên đốt và quay thật.

Trừ súng ống thuê của quân đội, còn lại các vũ khí khác, đoàn làm phim phải tự làm lấy. Xe tăng, máy bay, nòng pháo đa số là mô hình với kích cỡ gần như thật. Tất cả được làm 100% từ thép và bìa các tông. Lựu đạn cũng là lựu đạn gỗ được sơn màu phủ lên giống hệt… lựu đạn thật. Tuy không phải thuê nhưng chi phí cho những đạo cụ giả đó cũng hết sức tốn kém. Từ trước đến nay tốn nhiều tiền cho khói lửa, đạn pháo nhất là bộ phim nhựa Ký ức Điện Biên. Con số đầu tư lên đến gần 800 triệu đồng cho những cảnh quay công phu, hoành tráng.

(Theo VTV)

Hiệu ứng cho cảnh đóng thế

Xung quanh một cảnh quay mạo hiểm người ta cũng tìm cách phân loại ra các nhóm hiệu ứng tạo nên ấn tượng thị giác cho người xem.

NHỮNG HIỆU ỨNG NHƯ THẬT

Một trong những pha biểu diễn nguy hiểm như thật được sử dụng thường xuyên nhất là cảnh đánh nhau giữa hai nhân vật. Mặc dù sự va chạm thường được tránh, nhưng nhiều yếu tố trong cảnh đánh nhau, như đánh kiếm, võ thuật hoặc nhào lộn thì cần phải có sự tiếp xúc giữa hai diễn viên để dễ tạo ra những hiệu ứng riêng biệt, chẳng hạn tiếng động hay sự tương tác thể chất.

Những màn trình diễn nguy hiểm được dàn dựng ở mức độ cao và phải được luyện đi luyện lại một cách nghiêm ngặt trong nhiều giờ, nhiều ngày và đôi khi trong nhiều tuần liền trước khi biểu diễn.

Những diễn viên nhà nghề dày dạn kinh nghiệm sẽ thường phải xử lý pha hành động mà những rủi ro trong công việc rất cao, mỗi cử động và vị trí phải thật chính xác để giảm thiểu những chấn thương do tai nạn.

NHỮNG HIỆU ỨNG CƠ HỌC

Một pha biểu diễn chân tay nguy hiểm thường được sự hỗ trợ của máy móc.

Ví dụ, nếu nội dung phim yêu cầu người hùng nhảy xuống từ một điểm cao, đoàn làm phim phải đeo trang bị bảo hộ đặc biệt, và sử dụng dây cao thế dùng trên máy bay để kéo anh ta lên. Dây thép mỏng thỉnh thoảng sử dụng để làm bay các đồ vật, nhưng diễn viên thì không bao giờ được đu nó vì nó rất giòn và có thể đứt nếu có sự va chạm mạnh. Ngọa hổ tàng long là bộ phim Kungfu dựa nhiều vào những loại dây dùng để bay trong các pha diễn nguy hiểm.

NHỮNG PHA BIỂU DIỄN NGUY HIỂM CÓ XE CỘ

Các diễn viên những pha nguy hiểm có xe cộ đòi hỏi một sự tập luyện rất cao và thích ứng đặc biệt với xe cộ. Các pha biểu diễn đơn giản như xoay phanh tay, hoặc đảo hướng chạy của xe, hay cao hơn là những pha rượt đuổi xe hơi, nhảy hay đụng kéo theo rất nhiều xe. Remy Julienne nổi tiếng là diễn viên đóng những pha nguy hiểm với xe ô tô.

HIỆU ỨNG ĐƯỢC TẠO RA TỪ MÁY VI TÍNH

Vào những năm cuối thế kỷ 20 các diễn viên đóng thế trong những pha nguy hiểm được đưa vào những tình huống càng ít nguy hiểm càng tốt vì các nhà làm phim chuyển sang những hiệu ứng đồ họa vi tính với chi phí tương đối rẻ hơn (và an toàn hơn) sử dụng những dụng cụ bảo hộ và hàng lọat những hiệu ứng số và các thiết bị khác.

Ma trận (1999) là một trong những bộ phim hành động đầu tiên thành công khi sử dụng bao quát những pha biểu diễn nguy hiểm từ những hình ảnh tạo ra bởi máy vi tính.

(Theo Zing)

Phông nền xanh – công cụ đặc biệt của kỹ xảo điện ảnh

Từ lâu, kỹ xảo điện ảnh đã đóng góp vào sự thành công của nhiều bộ phim. Một trong các công cụ được sử dụng nhiều nhất của kỹ xảo điện ảnh chính là Phông nền xanh – Blue/Green Screen. Phông nền xanh cho phép ghép cảnh theo yêu cầu của đạo diễn.

Giả như thật

Vài ví dụ điển hình về ứng dụng kỹ xảo điện ảnh:

- Trong bộ phim E.T., chính kỹ thuật phông nền xanh đã làm cho khán giả thấy bọn trẻ trong phim đang bay khi mà trên thực tế chúng không bay gì cả!
- Trong bộ phim Star Wars, Luke lao chiến đấu cơ X-wing vào chiến hào của hành tinh Death Star cùng với các máy bay TIE truy kích phía sau lưng, nhưng tất cả đều là mô hình giả.
- Trong Return of The Jedi, Leia và Luke bay chiếc xe đạp đua ở vận tốc 160km/h trong rừng, trên thực tế, không có chiếc xe đạp nào bay ở vận tốc như thế!
- Trong Back to The Future, cảnh Delorean “cất cánh” chiếc xe hơi và bay xuống đường phố đông đúc tất nhiên là cảnh giả.
- Hay như trên bản tin thời tiết mỗi đếm ở Mỹ, phát thanh viên đứng trước bản đồ thời tiết được thực hiện bởi vi tính sao cho trông giống như cô ấy đang có mặt tại nơi bão tố đang hoành hành.

Trong tất cả các trường hợp nêu trên, ảo giác được tạo nên bởi kỹ thuật hiệu quả đặc biệt gọi là Kỹ thuật phối hình động ( Traveling Matte ) trên phông nền xanh.

Kỹ thuật này cho phép các diễn viên và mô hình xuất hiện trong những cảnh nằm ngoài sức tưởng tượng của con người như: bay ra không gian, đong đưa với sợi dây buộc vào thành cầu phía dưới là khe sâu, bay qua đường phố… Người xem có cảm giác, mọi chuyện diễn ra… như thật!

Kỹ xảo phông nền xanh

Có 2 cách khác nhau để thực hiện kỹ thuật này:

1. Static Matte (phối hình tĩnh)

Phối hình tĩnh được sử dụng thường xuyên trong kỹ nghệ điện ảnh để tạo hiệu quả đặc biệt. Cách thông dụng nhất là dùng kỹ thuật phối hai lần. Sau đây là các bước cần phải làm để tạo một cảnh hiệu quả đặc biệt.

Muốn có cảnh ngoạn mục hai diễn viên đấu kiếm trên một bình nguyên lớn bằng phẳng khi bầu trời mây đen vần vũ, cameraman phải quay cảnh hai diễn viên đứng trên một bình nguyên êm ả, nhưng phần trên của thấu kính được che lại bằng băng đen để phần bầu trời không xuất hiện trên phim ( bấm máy bình thường, hình chỉ hiện lên phim ở nửa dưới của phim ). Sau đó, cameraman cho đoạn phim vừa quay trở lui trong máy, rồi dùng băng che phía dưới của thấu kính để chụp đám mây thật. Đám mây này sẽ hiện bên trên phim ở phần bị bỏ trống lần quay trước. Như vậy với 2 lần quay, chúng ta đã có một cảnh hoàn chỉnh diễn viên đấu kiếm trong trời mưa bão.

Ngoài kỹ thuật này ra, có thể được tiến hành bằng cách:

- Bầu trời có thể hình hành từ máy tính thay vì phải quay bên ngoài.
- Hai cảnh quay riêng lẻ ở hai cuộn phim, rồi đưa vào bộ phận kỹ xảo điện ảnh để kết hợp thành cảnh hoàn chỉnh bằng một kỹ thuật gọi là Optical compositing ( bố cục quang học ).

Hai cảnh quay người trên bình nguyên và mây vần vũ được chuyển thành cảnh thứ 3, nhờ chiếc máy tạo bố cục thực hiện mỗi lần một khung hình với độ chính xác cao. Sự kết hợp này cũng có thể tiến hành tại bộ phận kỹ thuật số với 2 cảnh quay trước đó được kỹ thuật số hóa, kết hợp từng khung hình với nhau trong bộ nhớ vi tính, rồi in ra thành cảnh phim kết hợp hoàn chỉnh.

2. Traveling Matter (phối hình động)

Ví dụ về một cảnh quay có cảnh nữ diễn viên nắm sợi dây nhìn xuống khe nước sâu la hét cầu cứu. Đạo diễn có nhiều lựa chọn để thực hiện cảnh quay:

a. Nếu diễn viên có đủ can đảm thực hiện, cô ta sẽ nắm sợi dây đong đưa thật sự trong môi trường thật. ( Hầu như không có diễn viên nào dám làm chuyện như vậy ).
b. Đạo diễn có thể dùng người đóng thế trong môi trường thật nhưng không được quay cận cảnh. Khuôn mặt hoảng sợ của diễn viên sẽ được quay sau.
c. Đạo diễn có thể dùng phông nền xanh với diễn viên nắm sợi dây đong đưa trước màn ở độ cao an toàn. Kỹ thuật phông nền xanh cho phép kết hợp 2 hay nhiều lần quay một cảnh vào một cảnh hoàn chỉnh trông như thật. Lần quay đầu là quay khe núi như bối cảnh, lần quay 2 là quay diễn viên đu dây trước phông nền xanh trong studio. Tại bộ phận kỹ xảo điện ảnh, các chuyên viên sẽ sử dụng các phần mềm đặc biệt đế tạo thành cảnh cuối cùng diễn viên đu dây trên khe núi. Phông nền xanh cho phép ghép bối cảnh thật vào phía sau diễn viên, vì phông nền xanh tương đương với khoảng trống chưa có hình khi đi qua bộ lọc màu đỏ.

(Theo Kyxao.net)

Nghề làm kỹ xảo điện ảnh [Phần 1]


xin giới thiệu đến các bạn chuyên đề về “Nghề làm kỹ xảo”. Những bài viết trong đây được chúng tôi tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau, hy vọng giúp các bạn hình dung được một phần nào đó về kỹ xảo trong điện ảnh cũng như các khái niệm liên quan.

Nhiều bộ phim nổi tiếng, thu hút khán giả ngoài nội dung hay, còn phải nhờ đến kỹ xảo điện ảnh, như: Titanic, Công viên khủng long, Trân Châu Cảng, Xác ướp Ai Cập, Người Hùng…Vậy kỹ xảo điện ảnh được sử dụng ra sao?

Sử dụng phương pháp mô hình

Một phương pháp đơn giản nhất mà các nước có nền điện ảnh phát triển đã sử dụng từ trước đến nay. Nếu cần một cảnh một tòa nhà cao tầng bốc cháy, người ta sẽ tạo một mô hình giống y như tòa nhà thật, rồi sử dụng góc độ camera, ánh sáng để quay cảnh mô hình bị bốc cháy.

Ngày nay kỹ thuật máy tính ngày càng phát triển, việc tạo hiệu quả phim bằng mô hình cũng hiện đại hơn, thật hơn. Nhưng yêu cầu bắt buộc, người làm công việc này phải giỏi về kỹ thuật máy tính và chương trình đồ họa 3D.

Kết hợp cảnh quay thật, kỹ xảo máy tính và mô hình

Cách dùng kỹ xảo máy tính để tạo cảnh quay người bay lượn trên không trung, chia làm hai công đoạn quay: quay người trước một phông xanh và quay phong cảnh đã chọn. Yêu cầu người quay phim phải nắm được ý đồ của đạo diễn để có khuôn hình giữa người và cảnh khi lồng ghép sẽ hợp lý. Người phụ trách phần kỹ thuật của kỹ xảo sẽ có những cách thứuc riêng để lồng ghép cảnh vào nhau.

Ngoài ra, phim viễn tưởng người ta còn tạo hình bằng phần mềm đồ họa 3D. Nhân vật được tạo ra theo một kích thước nhất định, sau đó được điều khiển bằng một hệ thống điện tử như kiểu người máy.

Ở Hollywood, sản xuất một bộ phim viễn tưởng phải mất hàng năm, với sự tham gia của hàng trăm người. Phim có hay, hấp dẫn hay không phụ thuộc hoàn toàn vào óc tưởng tượng phong phú của đạo diễn và tài năng của người làm kỹ xảo.

Việt Nam với kỹ xảo điện ảnh

Dù kỹ xảo điện ảnh Việt Nam đang ở mức “chưa có gì”, nhưng một vài bộ phim ở ta đã có chút hơi hướng kỹ xảo, như: Tình yêu bên bờ vực thẳm, Hôn nhân không giá thú, Ngã ba Đồng Lộc… và gần đây là bộ phim Trò đùa của Thiên Lôi (Hãng phim truyện Việt Nam), một bộ phim “thực hành” nhiều kỹ xảo 3D.

Tuy nhiên, thực trạng cho thấy, vấn đề sử dụng kỹ xảo trong phim Việt Nam rất hạn chế, vì hai lý do là công việc không đơn giản và rất tốn kém. Do vậy đã dẫn đến một loạt phim có những chi tiết “ly kỳ” thì không tài nào chuyển tải được, phim trở nên nhàm chán và cứng nhắc.

Một ngành điện ảnh đã có thì không thể không có bộ phận kỹ xảo điện ảnh. Nếu dùng kỹ xảo đúng liều lượng, phim Việt Nam chắc chắn hấp dẫn khán giả hơn.

(Theo Thế Giới Phụ Nữ)

Kỹ xảo trong phim VN: Có thị trường mới nuôi được hứng thú sáng tạo
Sự vụng về đến mức ngây ngô của kỹ xảo trong phim VN đầu những năm 1990 được số đông khán giả chấp nhận vì… “thương các anh quá nghèo”.

Lần đầu tiên khán giả VN được xem kỹ xảo “cây nhà lá vườn” là trong hai bộ phim cổ tích VN: Học trò thủy thầnSự tích dã tràng.

Và sau gần 20 năm, kỹ xảo trong phim ta vẫn không có gì tiến bộ, các đạo diễn rất ngại dùng kỹ xảo vì tốn kém mà hầu như không mang lại hiệu quả gì. Hai bộ phim gần nhất có sử dụng kỹ xảo (Ký ức Điện Biên và Hà Nội – 12 ngày đêm) đều làm ở nước ngoài.

Nhưng có một đạo diễn trẻ vẫn rất kiên trì “chơi” kỹ xảo trong các phim truyền hình dài tập và các video clip của mình, đó là Đỗ Đức Thành – người lập danh với tư cách quay phim trong 12A và 4H,Người Hà Nội; sau đó tiếp tục gặt hái thành công trong nghề đạo diễn với các phim truyền hình nhiều tập Con nhện xanh, Những ngọn nến trong đêm, Những giấc mơ dài…

* Nhiều người kêu ca là anh hơi lạm dụng kỹ xảo trong chín tập phim Những giấc mơ dài. Có nhất thiết phải dùng nhiều đến thế?

- Đạo diễn Đỗ Đức Thành: Tôi cố tình dùng nhiều như thế. Toàn bộ chín tập phim có 16 phút kỹ xảo. Tôi cố tình “chơi” kỹ xảo để nhắc mọi người nhớ là phim VN vẫn có thể và nhiều lúc nên dùng kỹ xảo (tất nhiên hiệu quả đến đâu lại là chuyện khác!).

Tôi cũng biết các đạo diễn hiện còn rất ngại dùng kỹ xảo trong phim vì trước hết là nó tốn kém. Nhưng không thể né tránh nó mãi. Rồi cũng đến lúc ta phải làm phim cổ tích tử tế cho trẻ em hoặc là phim lịch sử hoành tráng không thể không dùng kỹ xảo. Cứ né tránh mãi thì sợ đến lúc ấy không hình dung ra được phải làm như thế nào chứ chưa nói đến làm thành công.

* Vậy cái sự “cố tình” của anh phải trả giá bao nhiêu – trong khi kinh phí làm phim là cố định?

- Tôi được sự động viên (bằng tinh thần) của ban giám đốc Hãng Phim truyền hình VN (VFC), cho phép tự do thể nghiệm. Và quan trọng là được sự giúp đỡ cũng hơi điên của những người bạn ở Công ty IDS Media. 16 phút kỹ xảo với giá tối thiểu khoảng 200 triệu đồng đã được IDS tặng không (có kèm một chầu bia tươi).

* Nhưng tương lai của công nghệ làm kỹ xảo chuyên nghiệp không thể trông cậy vào sự giúp đỡ, nó phải là quan hệ kinh tế, có hợp đồng đàng hoàng thì mới mong có chất lượng tương xứng?

- Vâng, tôi cũng biết thế, nhưng đến điện ảnh của chúng ta cũng còn đang nghiệp dư thì làm sao mà kỹ xảo – một phần của điện ảnh – lại có thể chuyên nghiệp ngay được.

Ở VN, chẳng có công ty nào chuyên làm kỹ xảo cho điện ảnh mà lại sống được trong thời điểm này, họ phải làm kỹ xảo cho phim quảng cáo là chính. Rồi lấy tiền đó mà nuôi những ý tưởng điên rồ đại loại như của tôi chứ.

Họ giúp tôi cũng là một cách tự quảng cáo cho mình, vì tôi – cũng như rất nhiều đạo diễn khác – là loại “khách hàng tiềm năng”, chúng tôi cũng làm phim quảng cáo và khi đó sẽ nhớ ngay đến họ để thuê làm hậu kỳ.

* Sắp tới anh sẽ còn sử dụng kỹ xảo trong tác phẩm nào của mình?

- Của tôi thì chưa vì tôi chưa có kịch bản ưng ý, nhưng tôi đã “xúi bẩy” được anh Phi Tiến Sơn làm kỹ xảo cho phim Cầu Ông Tượng ở trong nước. Tôi đã thấy các chuyên viên kỹ xảo VN ngồi làm 3D cảnh hàng trăm con voi đứng làm trụ cầu cho xe tải và bộ đội qua sông, hàng chục máy bay trực thăng HU1A lượn như chuồn chuồn. Cũng ấn tượng lắm! Mà không làm kỹ xảo không được.

Làm sao mà dựng được cảnh thật, dù có hàng triệu USD đi nữa. Thật vô lý khi làm kỹ xảo ở VN chỉ khoảng 10.000 USD/phút mà lại cứ thích đi làm ở nước ngoài – vừa không chủ động được thời gian, vừa bất đồng ngôn ngữ (đa số đạo diễn không biết tiếng Anh), lại tốn kém (ít nhất 50.000 USD/phút).

Nhưng tôi cũng mới chỉ rủ rê được một mình Phi Tiến Sơn – may mà ông này cũng mê máy móc và các trò mới lạ giống tôi.

(Theo Tuổi Trẻ)

Cần kỹ xảo tiến bộ cho phim Việt Nam

Đã nhiều năm qua, kỹ xảo trong phim của ta chưa có gì tiến bộ. Các đạo diễn đều ngại dùng kỹ xảo, bởi tốn kém mà kỹ xảo thực hiện trong nước chưa có hiệu quả cao. Các bộ phim có dùng kỹ xảo gần đây như: Hà Nội 12 ngày đêm, Ký ức Điện Biên đều làm ở nước ngoài.

Còn kỹ xảo của những phim cổ tích trong nước rất thô sơ, bởi đưa ra nước ngoài làm kỹ xảo chi phí rất cao. Tuy vậy, hiện nay vẫn có người cố gắng làm phim trong nước với kỹ xảo tiến bộ như đạo diễn Đỗ Đức Thành, người đã thực hiện các bộ phim truyền hình nhiều tập: Những ngọn nến trong đêm, Con nhện xanh, Những giấc mơ dài. Trong phim Những giấc mơ dài, đạo diễn Đỗ Đức Thành đã thực hiện 16 phút kỹ xảo đạt hiệu quả cao. Anh bày tỏ rằng mình tích cực làm kỹ xảo như vậy để nhắc các nhà làm phim là vẫn có thể thực hiện được những kỹ xảo tốt đẹp cho phim trong nước, mà chi phí ít hơn đưa đi làm kỹ xảo ở nước ngoài.

Thực tế các đạo diễn vì ngại tốn kém nên không muốn làm kỹ xảo. Tuy nhiên, làm phim thì không thể tránh kỹ xảo mãi được, khi kỹ xảo của điện ảnh thế giới đã tiến bộ tuyệt vời. Đã đến lúc những bộ phim cổ tích của chúng ta và cả phim lịch sử hoành tráng cần đến kỹ xảo. Nếu cứ tránh né mãi, thì đến lúc cần chưa có thể hình dung nổi phải làm kỹ xảo thế nào cho hay, nói gì đến việc thể hiện. Vì phim trong nước chưa chú trọng đến kỹ xảo, nên chưa một công ty nào có thể sống nổi với việc gia công kỹ xảo. Còn về khả năng thì đạo diễn Đỗ Đức Thành với sự giúp đỡ của các người bạn ở Công ty IDS Media đã làm được 16 phút kỹ xảo rất hay cho bộ phim “Những giấc mơ dài”. Công ty IDS Media đã tặng cho bộ phim này 16 phút kỹ xảo, với trị giá khoảng 200 triệu đồng VN để giới thiệu khả năng làm kỹ xảo cho phim trong nước. Những người làm kỹ xảo tiến bộ trong nước hiện nay chủ yếu là thực hiện kỹ xảo cho phim quảng cáo. Song họ có thể sẵn sàng đảm nhiệm những kỹ xảo chất lượng cao cho phim truyện VN.

Đạo diễn Đỗ Đức Thành cho biết đã có người đồng tình với anh là đạo diễn Phi Tiến Sơn.Thực hiện bộ phim “Cầu Ông Tượng” đạo diễn Phi Tiến Sơn đã mời nhóm chuyên viên kỹ xảo tiến bộ trong nước làm những kỹ xảo chất lượng cao. Khán giả xem phim “Cầu Ông Tượng” sẽ được thấy cảnh hàng trăm con voi đứng làm trụ cầu cho xe tải và bộ đội qua sông, cả đàn máy bay trực thăng HU 1A… bay lượn như chuồn chuồn rất ấn tượng. Những cảnh như thế chỉ có cách dùng kỹ xảo, bởi dù có cả triệu USD cũng không dựng được cảnh thật. Đấy, kỹ xảo trong nước bây giờ đã tiến bộ như thế…

Rất vô lý và lãng phí khi làm kỹ xảo trong nước chỉ tốn gần 10.000 USD/1 phút, mà lại phải đưa ra nước ngoài thực hiện, vừa mất nhiều thời gian, vừa tốn tiền nhiều hơn (với ít nhất 50.000 USD/1 phút).

Điện ảnh trong nước ngày càng phát triển, phim VN cũng được đưa ra nước ngoài ngày càng nhiều hơn, rất cần kỹ thuật hiện đại và những kỹ xảo hấp dẫn. Vì vậy, các đạo diễn và các nhà sản xuất phim trong nước cần quan tâm đến khâu kỹ xảo cho phim VN, chứng tỏ nền điện ảnh tiến bộ và phim VN có sức thu hút số đông khán giả trong và ngoài nước. Sự thuận lợi cho vấn đề này là đã có các chuyên viên trong nước thực hiện được kỹ xảo chất lượng cao, đang sẵn sàng cộng tác với những hãng phim VN.

(Theo Báo Bình Dương)

Kỹ xảo trong phim Việt Nam

Kỹ xảo ư? Tốn kém lắm! Đó là câu cửa miệng và cũng là suy nghĩ của không ít đạo diễn. Đành là tốn kém nhưng sao người ta không nghĩ tới hiệu quả hình ảnh và âm thanh mà kỹ xảo mang lại cho bộ phim của mình?


Kỹ xảo: Anh ở đâu?
Rất tiếc, với nhiều người, việc thay đổi cách làm phim cũ là quá khó trong khi việc dùng kỹ xảo trong tương lai là điều không thể tránh khỏi. Không phải đợi đến bộ phim truyền hình nhiều tập Những giấc mơ dài của đạo diễn Đỗ Đức Thành người ta mới biết thế nào là kỹ xảo trong phim VN nhưng bộ phim này lại cho khán giả VN cái nhìn trực diện về kỹ xảo.

ĐD Đỗ Đức Thành đã tiếp cận, học hỏi và quyết định đưa kỹ xảo vào phim. Nhưng mọi sự thử nghiệm ban đầu đâu có dễ dàng như vậy: ”Trong Những giấc mơ dài có nhiều đoạn nhà văn Nguyễn Thị Kim Huệ viết rất khó. Tôi có cảm giác như đánh đố đạo diễn vậy. Đó là cảnh nhân vật Phan đấu tranh nội tâm với những hình ảnh rất khác nhau của mình. Tôi đã dựng một cảnh Phan đánh nhau với chính bản thân anh ta trong trường quay và nhờ kỹ xảo can thiệp. Nó phần nào thể hiện được điều mà kịch bản muốn nói. Có nhiều đoạn trong Những giấc mơ dài cần phải làm đẹp, đẹp như mộng và điều đó cần được làm bằng kỹ xảo”.

IDS Media là một trong những nơi đầu tiên ứng dụng đưa kỹ xảo vào phim, kết hợp với các hãng phim truyền hình và phim nhựa làm kỹ xảo được 2 năm nay và được các đạo diễn tin tưởng giao phó đứa con tinh thần của mình. Sau màn ra mắt ấn tượng của IDS Media với Trò đùa của Thiên Lôi, bộ phim giả tưởng của ĐD Nguyễn Quang.

Cho dù chưa thực sự hài lòng với phần kỹ xảo thể hiện trong phim vì chưa được thoả sức sáng tạo nhưng dù sao cũng đã gạt phăng những lực cản vô hình mà kẻ khai phá mảnh đất kỹ xảo trong phim VN gặp phải. ĐD Đỗ Đức Thành ví mảnh đất làm kỹ xảo VN như một vạt rừng chưa có ai khai phá và anh tự nhận mình là người mở đường. ”Trong quá trình mở đường đó, có thể ta chưa đi đúng đường, có thể ta đi rất chậm và có lúc chưa tìm được đường đúng nhưng nếu không đi thì không bao giờ đến. Nếu ta sợ sai, không rút kinh nghiệm cho bản thân thì không thể làm phim kỹ xảo. Tôi không sợ mình sai, chỉ sợ mình không tìm được chỗ sai thôi”.

Những lực cản không dễ vượt qua
Trong cuộc hành trình chồng chất thách thức để gây dựng một nền kỹ xảo VN, những kẻ dám chấp nhận và thích sáng tạo đã có lúc nản chí vì đã vác trên vai một gánh nặng mà không thể bỏ giữa chừng. Ngoài việc chứng minh cho thiên hạ biết khả năng làm kỹ xảo của mình, họ còn muốn nhiều hơn thế, “chứng minh rằng VN hoàn toàn có thể làm được kỹ xảo”.

Thế nhưng, tìm được những chuyên gia có thể làm được kỹ xảo với vốn kiến thức và kinh nghiệm kha khá trong tay đâu có dễ, nhất là khi tại VN chưa có bất cứ trường lớp đào tạo chính quy nào về kỹ xảo. Trong khi đó muốn làm kỹ xảo cho phim khó hơn kỹ xảo 3D ứng dụng cho những lĩnh vực khác rất nhiều. Điều đó đòi hỏi những người làm kỹ xảo phải từ học hỏi và tái đào tạo. Anh Nguyễn Hồng Quân, GĐ IDS Media cho biết để làm kỹ xảo ra hồn, ngoài việc đầu tư cho máy móc với những RAM lên đến hàng chục GB với số tiền lớn, người ta còn phải chịu khó đầu tư cho con người và phần mềm, không mua được thì xin phần mềm thử nghiệm từ chính hãng do chi phí quá lớn.

Tuấn Linh, nhà phát triển trong cộng đồng 3DVN cho rằng do những giới hạn về phần cứng, phần mềm, con người nên ứng dụng của kỹ xảo trong điện ảnh ít người dám làm. “Ở VN kỹ xảo chưa có đất để phát triển. Cái chúng ta thiếu là chưa được đầu tư lớn vì nghĩ đến kỹ xảo người ta nghĩ đến những dàn máy khủng khiếp và những con người có kỹ năng tốt”.

Khó khăn là vậy nhưng Giám đốc IDS Media vẫn nuôi hy vọng vào triển vọng công việc của mình: ”Việc chúng tôi đầu tư vào lĩnh vực kỹ xảo có hai lý do. Thứ nhất, dù là IDS Media hay bất cứ công ty nào có khả năng làm dược kỹ xảo thì đây là cơ hội rất lớn vì các nhà làm phim VN cũng đã bắt đầu để ý đến lĩnh vực này. Thứ hai, có rất nhiều mảng có thể ứng dụng được kỹ xảo trong đó có kinh dị, sử thi… Đó là tiềm năng, cơ hội lớn. Tuy nhiên sẽ cần phải 3-5 năm nữa vì đây là ứng dụng công nghệ cao và cần đầu tư rất nhiều. Mảng kỹ xảo, truyền hình, kiến trúc đều cần sự hỗ trợ của kỹ xảo… Cuối cùng, lý do đơn giản tôi muốn chứng minh là VN cũng có thể làm được kỹ xảo”.

ĐD Đỗ Đức Thành chia sẻ: ”Tôi hy vọng VN sẽ sớm có một đội ngũ làm kỹ xảo chuyên nghiệp cho phim truyền hình và hy vọng việc làm kỹ xảo được coi như một phần không thể thiếu được của điện ảnh cũng như truyền hình. Người ta cảm thấy chán nản khi phải nhìn thấy mớ hình ảnh như đã thấy cách đây vài chục năm. Tôi hy vọng việc làm kỹ xảo được nhìn nhận một cách công minh hơn, được sự khuyến khích của những người đầu tư vì kinh phí chưa biết lấy ở đâu ra và cũng chưa có tiền lệ đầu tư làm kỹ xảo cho phim, trừ phim đặt hàng”.

(Theo VietNamNet)

QUY TẮC BỐ CỤC ẢNH PHONG CẢNH



1. Đường chéo của ảnh
Đường chéo tạo điểm nhấn trên ảnh là cây cầu Cánh Cổng Vàng. Ảnh: Flickr.
Đường chéo của ảnh thực chất chỉ là một đường thằng tưởng tượng do các vật thể trong khung hình vẽ ra, chẳng hạn một hàng cây, hàng rào hay bờ sông... Bố cục theo quy tắc đường chéo có thể là một cách rất tuyệt để thu hút sự chú ý của mắt vào đối tượng chính. 
Thông thường, những đường chéo xuất phát từ góc ảnh này tới góc ảnh kia chia khung hình làm nhiều phần, đồng thời làm mắt rời sự chú ý khỏi khu vực trung tâm. Đưa đối tượng chính vào một góc ảnh sẽ giúp nhấn mạnh ý tưởng một cách hợp lý và hiệu quả nhất. Bố cục đường chéo theo chiều dọc và ngang cũng là phương pháp hay được sử dụng khi chụp đối tượng có quy mô lớn như hàng cây cổ thụ hay công trình kiến trúc.
Lưu ý rằng, một loạt đường chéo chạy theo nhiều hướng khác nhau (và giao nhau) có thể tạo nên điểm nhấn cho bức ảnh. Nhưng nếu số lượng này quá lớn có thể làm tác phẩm của bạn trở nên hỗn loạn và khó hiểu. 

2. Dạng hình học
Xem ảnh bên:Tam giác phối cảnh trên ảnh bao gồm vòm cây và một con đường nằm tại chính giữa, người và chú mèo hơi lệch về hai bên.(Ảnh: Flickr)

Ảnh phong cảnh thường cần những điểm nhấn để tạo nên sức hấp dẫn. Tuy nhiên, các điểm này cũng phải được bố trí theo một dạng hình học nhất định để tạo nên sự cân bằng cho khung hình. Ví dụ điển hình nhất là việc tạo nên một tam giác phối cảnh giữa ba vật thể, trong đó có một vật nằm ở trung tâm và hai vật còn lại phân bố hai bên. Phương pháp bố cục theo kiểu tạo dạng hình học thường rất khó áp dụng nhưng lại tạo ra hiệu quả cao khi muốn thu hút sự chú ý của người xem vào bức ảnh.

3. Quy tắc một phần ba 
Người và hoa hướng dương nằm trong khu vực điểm gia cắt của các đường ngang và dọc. Riêng chân trời nằm khá sát đường ngang một phần ba phía trên.(Ảnh: 3Joirn)
Để nhấn mạnh chủ thể của ảnh, người chụp luôn có xu hướng đặt đối tượng vào trung tâm khung hình. Kiểu bố cục đơn giản này khá hiệu quả khi chụp macro hay nhiếp ảnh đời thường. Tuy nhiên, với thể loại phong cảnh và chân dung, cách này có thể gây phản cảm vì chủ thể sẽ chiếm gần như toàn bộ khung hình và không thể hiện được chiều sâu bức ảnh. 

Ta có thể khắc phục hiện tượng này bằng cách sử dụng quy tắc một phần ba. Cụ thể, khuôn hình sẽ được chia làm chín phần bằng nhau bởi hai đường kẻ ngang và hai đường kẻ dọc. Đặt chủ thể vào điểm giao cắt của các đường ngang và dọc sẽ tạo nên hiệu quả nhấn mạnh tốt nhất. Đa số máy ảnh hiện nay hỗ trợ việc chụp theo quy tắc một phần ba bằng cách hiển thị các đường kẻ grid lines trên màn hình LCD hoặc kính ngắm.

4. Tạo khung ảnh 

Tạo khung ảnh bằng cách chèn thêm một bộ phận nhô ra phía trên khung hình, chẳng hạn một vài tán lá. Ảnh: Trustedreviews.
Tạo khung ảnh (Framing Image) là kỹ thuật chặn một phần khung cảnh chính bằng các vật thể khác nằm tại rìa ảnh. Thông thường, các vật này nằm ở tiền cảnh, tức là gần vị trí đặt máy hơn chủ thể. Khung nền thường có nhiều hình dạng và kích cỡ, cũng không nhất thiết phải bao trọn lấy toàn bộ bức ảnh. Khung nền bố trí không tốt có thể gây cảm giác lộn xộn và chật chội. Tuy nhiên, với một chút khéo léo, bạn có thể tạo nên sự khác biệt nhờ chính sự lộn xộn đó. Cách bố cục phổ biến nhất trong nhiếp ảnh phong cảnh là chèn thêm một bộ phận nhô ra phía trên cùng khung hình, chẳng hạn như một tán lá hay một nhành cây khô...

5. Quy tắc sinh ra để bị vi phạm
Những quy tắc nhiếp ảnh đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành góc nhìn cho người cầm máy. Người chụp nên biết và nhớ để vận dụng chính xác trong các trường hợp khác nhau, tuy nhiên, không nên quá cứng nhắc và lạm dụng để tránh chụp phải những bức hình giống của người khác. Nếu có thể, hãy phá bỏ các quy tắc và vận dụng khả năng sáng tạo của mình để tạo ra những kiểu bố cục mới lạ.
Để phá đươc niêm luật trong bố cục thường là người rất giỏi về bố cục ảnh đấy.Nhưng các bạn hãy sáng tạo đi.

Nhiếp ảnh phong cảnh luôn cần những ý tưởng mới lạ.(Ảnh Desktoprating)
Theo Trần Hạ (Sohoa)- Đích Đến

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review