Trích từ Đích Đến Blog: bắt đầu sưu tập và biên soạn các thuật ngữ liên quan đến kỹ thuật hoặc khái niệm nghệ thuật chung của Điện ảnh và Vô tuyến truyền hình. Mục đích là để giúp các bạn trẻ đang học tập chuyên ngành quay phim khi muốn tham khảo thêm hoặc mở rộng kiến thức kỹ thuật.
Các thuật ngữ chỉ manh tính định nghĩa chung,đã được trình bày trong các từ điển kỹ thuật và sách chuyên nghành ỏ trong nước cũng như các từ ngữ thường xuyên được dùng trong thực tế.Đích Đến có thể bổ sung các ảnh hoặc minh họa sinh động và cũng để giúp các bạn đọc hiểu rõ thêm.
Xin nhắc lại đây là tập hợp các định nghĩa chuyên ngành mang tính khái niệm,chứ không phải là một cuốn sách kỹ thuật chuyên nghành với đầy đủ lý thuyết.Bởi vậy các thuật ngữ đã đăng có thể được bổ sung,chỉnh sửa hoặc cập nhật những thông tin mới.Trong quá trình sưu tập và đăng lên không thể tránh khỏi những thiếu sót đề nghị được góp ý và bổ xung theo địa chỉ email: ha.dichden.pham@gmail.com.
Xin chân thành cám ơn.
Đích Đến
ÁNH SÁNG:
Theo nghĩa hẹp, là sóng điện từ trong khoảng tần số mà mắt người nhận biết được, có bước sóng từ 740 nm đỏ,đến 400 nm-tím (có số liệu là 390nm). Theo nghĩa rộng,ánh sáng là bức xạ quang học (bao gồm cả phần bức xạ hồng ngoại và tử ngoại).
Trong ngành điện ảnh và nhiếp ảnh ánh sáng được phân biệt:Ánh sáng nội là AS được phát ra và chiếu bởi các loại đèn; Ánh sáng ngoại cảnh là ánh sáng được phát xạ từ Mặt Trời. Ngoài ra, có ánh chủ, phụ,ánh sáng ngược, ven là để giải thích hướng chiếu sáng, được tạo nên nhằm đáp ứng nội dung nghệ thuật của bộ phim, của bức ảnh xuất phát từ sự quan sát thực tiễn với không gian chân thực và thẩm mĩ.
ÁNH SÁNG BÊN:
Hướng chiếu của nguồn sáng vào bên trái hoặc bên phải của đối tượng, nhằm làm nổi bật hình khối của các chi tiết và kết cấu bề mặt của đối tượng. Bóng các vật chụp ngả dài nhưng vẫn dịu. Chụp ảnh với ánh sáng bên thích hợp nhất khi ta muốn làm nổi bật chất liệu của đối tượng như đá, vải, gỗ, da, vv.
ÁNH SÁNG CHẾCH:
Hướng chiếu của nguồn sáng vào vật thể chếch 45o về phía trước mặt từ cao xuống. Đó là góc độ chiếu sáng thích hợp nhất để chụp ảnh,hay được dùng làm ánh sáng chủ để giải thích nguồn sáng từ đâu tới.Ánh sáng chếch làm nổi hình khối, nhưng không làm cho bóng của vật thể chiếm một vị trí quá nổi bật. Chụp chân dung với ánh sáng chếch,hình ảnh đối tượng hiện ra với vẻ tự nhiên, ưa nhìn.
ÁNH SÁNG NHÂN TẠO:
Ánh sáng do con người tạo nên từ ngọn nến, đèn dầu, lửa đốt, đèn điện... cho đến đèn chớp điện tử. Sử dụng nguồn sáng nhân tạo cho phép khống chế được cường độ, tính chất, thành phần quang phổ của nó. Nguồn sáng nhân tạo mang đặc tính khác với nguồn sáng tự nhiên ở chỗ: thành phần quang phổ hay nhiệt độ màu trong từng loại nguồn sáng đa dạng hơn. Trừ đèn chớp điện tử,các nguồn sáng nhân tạo khác có nhiệt độ màu từ 1.853 K đến 20.000 K. Cường độ các nguồn sáng nhân tạo có từ 1 lux đến hàng triệu lux. Chụp ảnh hoặc quay phim bằng thiết bị chiếu sáng, ta có thể chủ động tạo nên góc chiếu.hướng sáng thích hợp.
ÁNH SÁNG NGƯỢC:
Ánh sáng có hướng chiếu trực tiếp vào phía ống kính của máy chụp, tạo nên sự tương phản quan trọng, vì những chi tiết của đối tượng (đối diện với ống kính) đều nằm trong bóng tối. ASN làm cho hình ảnh của đối tượng nổi bật trên các lớp cảnh của thiên nhiên, nổi bật trên nền trời với đường viền sắc nét.
ÁNH SÁNG THUẬN:
(Ánh sáng trực diện), hướng ánh sáng chiếu lên đối tượng đồng đều, không rõ phần sáng và phần tối. Độ tương phản kém, làm mất hình khối bởi vậy gọi là ánh sáng bẹt. Các lớp cảnh khác nhau từ tiền cảnh đến chân trời khó phân biệt. Không nên dùng phim đen trắng chụp loại ánh sáng này, nhưng có thể dùng phim màu đảo dương chụp một số đối tượng có nhiều màu rực rỡ. Trong trường hợp này, độ tương phản màu thay thế cho độ tương phản ánh sáng.
ÁNH SÁNG VEN-ÁNH SÁNG NGƯỢC:
Nguồn sáng kết hợp hướng chiếu sáng ngược với hướng chiếu sáng bên, tạo ra chung quanh vật chụp đường viền sáng, làm nổi bật đối tượng chụp. Nguồn sáng này thường mạnh hơn nguồn sáng trực diện.
ÂM BẢN - NEGATIVE
( Bản âm phim, phim nêgative), tấm phim hay phim sau khi lộ sáng (sau khi chụp, quay) và tráng. Hình ảnh trên phim bản âm bao gồm đường nét, hình khối, tông màu, sắc độ... đều ngược với đối tượng chụp (quay), nghĩa là những chỗ sáng trong thực tế trở thành tối và những chỗ tối trở thành sáng trên phim đen trắng và có màu đối nhau trên phim màu (lam – vàng, lục – hồng tím, đỏ – xanh lục).Phim âm bản-negative được in lên phim sống và sau khi tráng bản phim đã in đó, sẽ được bản dương. Ngoài bản âm hình, trong điện ảnh còn có bản âm tiếng. Từ băng tổng hợp , thông qua phương pháp ghi tiếng quang tính, sẽ được bản âm tiếng.
ẢNH:
(nhiếp ảnh,kỹ thuật điện ảnh), hình đồng dạng phối cảnh của vật thể trên bề mặt lớp nhũ tương bắt sáng sau quá trình chụp ảnh và in tráng. Nếu nhũ tương bắt sáng chỉ là muối bạc halogenua thì ảnh hình thành bởi các hạt bạc nguyên chất, tạo ra ảnh đen trắng. Cấu tạo của ảnh màu gồm những phần tử màu được hình thành trong quá trình tráng, sau khi các hạt muối bạc bắt sáng bị hòa tan. Có hai loại: ảnh âm bản trên phim chụp là hình ngược của vật thể về đường nét, màu sắc và độ đậm nhạt của tông màu; ảnh dương bản là bản in hoặc phóng của A âm bản, giống vật thể về đường nét, tông màu.
ẢNH CHÂN DUNG:
Ảnh miêu tả con người với sự nhấn mạnh gương mặt và hình dáng (cả người hoặc nửa người).Ảnh chân dung mang lượng thông tin về diện mạo, tuổi đời, hoàn cảnh sống, nghề nghiệp (đặc điểm) và cá tính đúng như vốn có của một hay nhiều người, nhằm giới thiệu những khám phá độc đáo về con người.Ảnh chân dung là thể loại khó chụp nhất trong nghệ thuật nhiếp ảnh.
ẢNH ĐỒ HOẠ:
Ảnh chứa đựng các yếu tố đồ hoạ, thường sử dụng trong lĩnh vực trang trí, quảng cáo. Ảnh đồ họa là khái niệm mở rộng của nhiếp ảnh nghệ thuật, trong đó kết cấu của tác phẩm chủ yếu theo phương pháp đồ hoạ, cả ở khâu chụp và nhất là ở khâu xử lí sau khi chụp.
ẢNH HỒNG NGOẠI:
(Ảnh nhiệt, ảnh hồng nhiệt), ảnh hình thành ở dải phổ hồng ngoại (3,0 - 1.000 μm) nhờ sự phát xạ nhiệt của đối tượng.Ảnh hồng ngoại phản ánh sự tương phản nhiệt (phát xạ) trong đó những đối tượng có nhiệt độ cao hơn được thể hiện bằng sắc ảnh sáng hơn và những đối tượng có nhiệt độ thấp hơn được thể hiện bằng sắc ảnh sẫm hơn.Ảnh hồng ngoại thu được nhờ hệ thống thiết bị thu nhận sự tương phản về nhiệt và chuyển thành hình ảnh có dạng như ảnh chụp.Ảnh hồng ngoại có thể chụp vào bất kì lúc nào và trong mọi điều kiện thời tiết.Ảnh hồng ngoại có thể là đen trắng, màu và lập thể. Phim dùng để chụp ảnh hồng ngoại có lớp nhũ tương X ganines. Khi chụp, người ta thường dùng kính lọc đỏ sẫm hoặc kính thuỷ tinh mangan màu đen để lọc các bức xạ nhìn thấy được.Ảnh hồng ngoại có giá trị đặc biệt để phát hiện những vùng cây trồng hoặc rừng bị sâu bệnh, phát hiện dị thường nhiệt, hoạt động của núi lửa, những kiến trúc dị thường (như chứa dầu khí), để thành lập bản đồ trường nhiệt và dòng chảy trên biển, nhiệt độ của đất, các hiện tượng nước trồi cũng như ô nhiễm nước và không khí, vv.
Trong lĩnh vực sinh học: nhờ khả năng xuyên qua các vật thể,ảnh hồng ngoại xác định được hệ thống tĩnh mạch chìm, thấy các vết sẹo cũ đã bị mờ, phát hiện được một số bệnh ngoài da đang hình thành, vv.
Trong công tác an ninh:Ảnh hồng ngoại có thể chụp tài liệu qua một phong bì dán kín, nhằm phát hiện những dấu vết để lại trên phong bì, hoặc các thông báo bằng mật mã dấu dưới con tem đã dán mà không cần bóc tem ra, vv. hoặc phát hiện các chữ kí đã có lớp sơn phủ lên, một bức tranh bị phủ một lớp sơn hay các vết tẩy xoá, thêm bớt trong công văn tài liệu. Cũng có thể ứng dụng trong công tác nghiên cứu, quan sát các hình thái nguỵ trang trong chiến tranh.
ẢNH LIÊN HOÀN:
Bộ ảnh,chùm ảnh phóng sự,mỗi bức ảnh mang một thông tin riêng,liên kết với bức ảnh đặt trước và sau nó.Mỗi bức ảnh có thể cỡ rộng hẹp khác nhau,có ảnh là phong cảnh,có ảnh là đặc tả chi tiết.
(Phóng sự ảnh)-Tập hợp một số bức ảnh để miêu tả một sự kiện xảy ra tại một không gian,địa điểm thông qua những hoạt động,hành động của các nhân vật cụ thể.Ví dụ:Phóng sự ảnh về một cuộc mít tinh,Chuyến thăm địa phương của nguyên thủ quốc gia…Ảnh liên hoàn cũng có thể là một phóng sự ảnh mang tính chuyên đề về một vấn đề,vấn nạn xã hội như:Vệ sinh thực phẩm,nước sạch nông thôn,tuổi trẻ học đường ma túy…
(Mang tính chân dung)-Là những bức ảnh về cuộc đời hay những khoảnh khắc trong hoạt động của một nhân vật cụ thể.Ví dụ:Cuộc đời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,chân dung nghệ nhân chạm bạc,một ngày của người bán hàng rong…
Ảnh liên hoàn diễn xuất:Kể lại một nhân vật trong một tình huống xảy ra mà các bức ảnh có thể mông- ta- giơ lại với nhau như trong một bộ phim ngắn.
ẢNH MAKRO: ảnh chụp vật thể lên phim thường to hơn hay bằng vật thể. Vì mỗi ống kính có một tiêu cự nhất định nên muốn chụp được vật thể như thế, bắt buộc cự li giữa ống kính và vật thể phải rất nhỏ (ống kính phải gần vật chụp) và khoảng cách giữa ống kính và phim (khoảng cách kéo dài) phải lớn. Để tăng khoảng cách này, cần lắp thêm vòng nối hoặc ống xếp. Vật thể càng gần ống kính thì độ nét sâu càng bị hạn chế. Vì thế, chụp AVM phải chọn độ mở chế quang nhỏ để làm tăng độ nét sâu. Khi kéo dài khoảng cách giữa ống kính và phim, lượng sáng bắt vào phim bị giảm, nên phải tăng thời gian lộ sáng.
ẢNH NGHỆ THUẬT:
Ảnh có nội dung tư tưởng, có giá trị thẩm mĩ, ý nghĩa xã hội, truyền cảm xúc mạnh đến người xem, chứa đựng những suy nghĩ rộng lớn về cuộc sống, con người. Tính hình tượng và tính chân thật không thể thiếu trong ảnh nghệ thuật. Các loại ảnh chân dung, phong cảnh, kiến trúc, sinh hoạt, sân khấu, thể thao, quảng cáo, tĩnh vật, báo chí, áp phích… đều có thể trở thành ảnh nghệ thuật khi có đầy đủ những phẩm chất nghệ thuật trên.
ẢNH PHÓNG SỰ:
Thể loại ảnh ghi lại một sự kiện,một hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội.Ảnh phóng sự tại hiện lại một khoảnh khắc thực tế đã diễn ra,thể hiện tính chân thực về thời gian và địa điểm.Ảnh phóng sự cung cấp cho người xem một cái nhìn toàn cảnh hay cận cảnh của thực tế,những chi tiết đắt,độc đảo mang tính điển hình mang tính hiện thực.
ẢNH TĨNH VẬT:
Ảnh miêu tả các đồ vật gắn với cuộc sống con người trong trạng thái tĩnh (không chuyển động) như ảnh chụp bông hoa trong bình, đèn ngủ, quả táo trên đĩa, bộ ấm tách, bàn ăn, vv. Phạm vi đề tài phong phú, đa dạng. Ngoài mục đích trang trí, thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ.Ảnh tĩnh vật còn mang một ý đồ nghệ thuật, diễn tả một vấn đề tư tưởng hay thể hiện tình cảm của con người đối với đồ vật.
ẨN DỤ:
1. (Văn, ngôn ngữ), biện pháp dùng tên gọi của đối tượng này làm tên gọi của đối tượng khác dựa trên sự liên tưởng về mối tương đồng (có tính chất hiện thực hoặc được tưởng tượng ra) giữa hai đối tượng về mặt nào đó (như màu sắc, tính chất, trạng thái, vv.). Dựa vào chức năng, có thể chia ẩn dụ thành ba loại: 1) Ẩn dụ định danh cung cấp những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ cũ. Ví dụ: đầu làng, chân trời, tay ghế, mạng lưới giao thông, làn sóng đấu tranh, vv. 2) Ẩn dụ nhận thức, là nguồn tạo nên hiện tượng đa nghĩa.Ví dụ: tâm hồn giá lạnh, tuổi xuân mơn mởn, cuộc sống lênh đênh, vv. Hai loại ẩn dụ này đều ít có giá trị tu từ. 3) Ẩn dụ hình tượng hoặc ẩn dụ tu từ là phương tiện diễn đạt có giá trị hình tượng, có sức mạnh biểu cảm.Ẩn dụ tu từ được dùng trong văn chính luận cũng như trong thơ ca đặc biệt là thơ trữ tình.Ví dụ "Hoa" mang ý nghĩa ẩn dụ, chỉ người phụ nữ có nhan sắc, trong câu: "Giá đành trong nguyệt trên mây, Hoa sao hoa khéo đoạ đầy bấy hoa" (Truyện Kiều).
2. (mĩ thuật), Ẩn dụ là bố cục tạo hình xây dựng những hình ảnh cụ thể nhưng gợi liên tưởng đến những ý niệm trừu tượng. Bức tranh "Công lí và sự báo phục truy nã tội phạm" của Pruđông (P. P. Proudhon) là bức tranh ẩn dụ. Tranh Tết Việt Nam như tranh "Gà", "Lợn", gợi liên tưởng đến cảnh con cháu đầy đàn, cảnh làm ăn sung túc ấm no;tranh "Tùng","Cúc", "Trúc", "Mai" gợi liên tưởng đến sự tuần hoàn của trời đất, đến khí chất thanh cao của hiền nhân quân tử.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét