THE ART IN MY HEART !!!

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Đại Cathay - Huyền thoại giang hồ Sài Gòn


Bí mật về trùm giang hồ khét tiếng Sài Gòn - Đại Cathay

Trước năm 1975, xã hội đen trên đất Sài Gòn được người dân đặt cho cái tên vừa miệt thị vừa khiếp sợ, đó là “du đãng”. Có 4 trùm du đãng khét tiếng nhất ở Sài Gòn mà trong giới gọi là “tứ đại thiên vương”, đó là: Nhất Đại – nhì Tỳ - tam Cái – tứ Thế (tức Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế). Đại Cathay được xếp đầu bảng.

Đại Cathay đã từng khuynh loát được giới chính trị, quân sự ở Sài Gòn, cụ thể là Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan. Theo những người am hiểu thế giới xã hội đen Sài Gòn thì nếu Đại Cathay có học hành chút đỉnh, bớt “võ biền” và thêm một chút “trí tuệ”, có thể y đã trở thành một dạng mafia quốc tế.
Đại Cathay
Từ trẻ bụi đời thành trùm du đãng

Dân Sài Gòn vào thập niên 1960 và đầu đầu niên 1970 đã quá quen với hình ảnh của Đại Cathay được mô tả trên báo, được tiểu thuyết hóa và dựng thành phim. Đó là một thanh niên điển trai với mái tóc bồng bềnh, quần Jean, giày cao cổ, trên môi không rời điếu thuốc, tay luôn “múa” hộp quẹt Zippo.

Thế nhưng, ngay cả đám du đãng đàn em thân cận cũng không ai biết Đại Cathay xuất thân thế nào, tên tuổi thật là gì. Theo hồ sơ của cảnh sát Sài Gòn, Đại Cathay tên thật là Lê Văn Đại, sinh năm 1940, con của ông Lê Văn Cự và bà Sáu (không rõ họ).

Cha của Đại cũng từng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối vào thời Nhật Bản chiếm đóng Sài Gòn. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng chiến, bỏ Sài Gòn đi vào chiến khu rừng Sác và đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Dương Văn Dương.
Vì vậy mà ngay từ nhỏ Đại ít được gần cha, chủ yếu sống với mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, phường Khánh Hội (nay là đường Đoàn Văn Bơ, Quận 4). Quận 4 là vùng đô thị ven Sài Gòn mới ra đời, là nơi tập hợp của người dân tứ xứ bỏ quê vào thành thị. Vì vậy mà nơi đây rất phức tạp ngay từ khi nó mới ra đời, để rồi giới giang hồ Sài Gòn dựa dẫm vào quận 4 để hoạt động, biến nới đây thành “thánh địa” của xã hội đen Sài Gòn trước ngày giải phóng. Sống trong môi trường đó, Đại bỏ học từ nhỏ, thường chơi với  đám trẻ con bụi đời chung quanh.

Như thừa hưởng “gien” của người cha từng là dân “anh chị”, Đại sớm thể hiện là đứa trẻ có tính tình phóng khoáng, nhưng lại rất lì đòn, nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh nể phục, tôn là “Đại ca”. Chưa tới 10 tuổi đầu, Đại đã có thể luồn lách vào các chợ, sạp hàng ở chợ Vân Đồn, chợ Tôn Thất Thuyết để ăn trộm dưa, chuối về chia cho những đứa trẻ đồng cảnh ngộ. Trong một trận đánh giữa bộ đội Bình Xuyên và quân Pháp ở chiến khu Rừng Sác, ông Lê Văn Cư cha của Đại bị bắt và đày ra Côn Đảo, ít lâu sau thì chết.

Mẹ của Đại lấy chồng khác, người cha dượng rất máu mê cờ bạc, nghiện thuốc phiện nặng, nên gia cảnh nhà của họ ngày càng suy sụp. Người cha dượng thường hành hạ vợ và đứa con ghẻ, một lần Đại không kềm chế được đã đánh lại ông ta rồi bỏ nhà đi bụi đời, sống lang thang ở khu vực vườn hoa Cầu Mống bằng nghề đánh giày, bán báo để tự nuôi thân.

Tại khu vực làm ăn của Đại (ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công Trứ) có 1 rạp chiếu bóng tên là Cathay. Không riêng gì Đại, mà nơi đây còn tập trung khá nhiều trẻ bụi đời có cùng hoàn cảnh như Đại.

Không gia đình, không được giáo dục, bọn trẻ bụi đời liên tục đánh lộn giành khách, đứa nào gan lỳ, có sức khỏe thì đứa đó chiến thắng và được nhiều khách hàng hơn, cuộc sống vì vậy mà cũng đỡ vất vả hơn.

Dù mới đến khu vực này, nhưng với bản tính lỳ lợm và liều lĩnh, Đại cứ lao vào đối thủ, buộc đối phương phải đánh “cận chiến”, nhờ vậy mà Đại phát huy được những cú đấm của mình, còn đối thủ dù cao lớn hơn nhưng trở nên bị động, lúng túng.

Kết quả là trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng trong các cuộc “tỉ thí”, dù sau mỗi cuộc “so găng” là tay chân mặt mũi cậu bé đầy vết rách bầm, sưng húp. Không phải mất nhiều thời gian, Đại nghiễm nhiên trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, tên du đãng nhóc này được ráp thêm vào tên mình cái đuôi rạp hát Cathay.

Cái tên Đại Cathay ra đời từ đó, vào năm 1954, lúc Đại mới 14 tuổi, cái tên trong suốt gần 20 năm làm cho giới du đãng Sài Gòn và cả những người dân lương thiện mỗi lần nghe tới phải sợ hết hồn.

Liều lĩnh và nghĩa hiệp

Từ ngày trở thành tay anh chị trong thế giới trẻ bụi đời với cái tên Đại Cathay, Đại vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em đi làm mang tiền về nộp. Hàng chục trẻ bụi đời dưới trướng của Đại như Ba Binh, Ba Tướng, Ba Gà..., tụ tập quanh Đại Cathay, mỗi sáng nhận thùng đánh giày, nhận báo, sau đó túa đi làm nhiều nơi, chiều đem tiền về nộp cho “đại ca” Đại.

Mới chút tuổi đầu mà Đại đã biết cách thu phục “nhân tâm”, bằng cách rất hào phóng, không bao giờ giữ tiền làm của riêng cho mình, mà  chia hết tiền cho đàn em, bản thân Đại cũng chỉ nhận một phần tương đương với mọi người.

Một góc Sài Gòn

Nhiều đứa trẻ bụi đời trong nhóm chẳng may bị ế báo hoặc bị mưa ướt hết báo, Đại Cathay chẳng những không bắt đền tiền, cũng không chửi bới, đánh đập như những tay anh chị khác, mà còn lấy tiền lời chung để bù đắp, chia phần cho những đứa trẻ không may.

Nhờ vậy mà đàn em càng nể phục và  nghe lời Đại, tiếng “lành” nhanh chóng vang xa, trẻ bụi đời các nơi rủ nhau về tề tựu dưới trướng của Đại. Với tình hình đó, nạn đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay cũng tự nhiên mà giảm hẳn. Khu vực “làm ăn” của nhóm trẻ bụi đời do Đại Cathay đứng đầu lúc đó nằm gần bót cảnh sát quận Nhì, còn có tên là bót Dân Sinh.
Sự nổi tiếng của nhóm trẻ bụi đời sát bên đã làm cho các cảnh sát trong bót quan tâm, nhiều lần Đại Cathay sau khi “chinh phạt” các nhóm trẻ khác đã bị các ông cò bót quận Nhì tóm cổ đem về bót. Không dễ trị như những đứa trẻ lang thang khác, Đại Cathay vẫn trơ trơ những lời hăm dọa, tát tai, đá đít, một mình nhận tội chứ nhất định không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả.

Một lần, các cảnh sát quận Nhì nghĩ ra đòn độc để trị Đại Cathay, qua đó dằn mặt cả bọn trẻ bụi đời. Họ bắt Đại quỳ xuống đất, hai cảnh sát hai bên xốc Đại đứng nhón chân lên, xong họ cạy miệng cậu bé, bắt thả vào miệng con gián sống, để cho nó chui tọt vào cổ họng, rồi chui thẳng xuống dạ dày.

 Ngứa ngáy, kinh tởm, Đại Cathay ói ra mật xanh. Đám trẻ bụi đời đứng xung quanh sợ mất hồn, có đứa đái ra cả quần. Nhưng Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, trấn tĩnh trở lại, tiếp tục câm như hến, chỉ nhận một mình mình gây hấn, không có đứa trẻ nào khác tham gia. Trước đứa trẻ cứng đầu, bất trị, các “ông cò” chỉ còn cách tống Đại Cathay vào Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.

Thời gian Đại đi “giáo hóa”, ở khu vực rạp hát Cathay các băng nhóm bụi đời khác nổi lên, hoành hành những đàn em của Đại. Sau khi ra trại, Đại quay trở về chốn cũ và “tái lập” lại trật tự cũ bằng những trận thư hùng mỗi ngày một khốc liệt hơn theo đà lớn lên của Đại.

Năm 1955, khu vực rạp hát Cathay được xây dựng chỉnh trang lại, không còn chỗ dung thân cho trẻ bụi đời, Đại Cathay chuyển sang “họat động” ở khu vực Hãng phân bón Khánh Hội ở quận 4, cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos, cách không xa nhà của mẹ Đại, nhưng cậu bé kiên quyết không ghé nhà.

Đám trẻ bụi đời ở đây từng nghe tiếng Đại Cathay, nhưng không dễ nhượng lãnh địa làm ăn một cách dễ dàng, vậy là xảy ra những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự liều lĩnh và lì đòn của Đại lại giành phần thắng, toàn bộ trẻ bụi đời ở khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, là khu vực nổi tiếng về giang hồ, dao búa, đã kéo nhau về qui phục về dưới trướng của một “đại ca” từ nơi khác mới đến.

Lúc ấy, khu vực Cầu Mống - Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh được dân giang hồ gọi là khu Da Heo, do một tay giang hồ “người lớn” nổi tiếng tên là Tám Lâu cai quản.

Sáng sáng, Tám Lâu ở trần, mặc quần dài, ngồi trên chiếc xích lô đạp rảo khắp khu vực đi kiểm tra lãnh địa, mặt luôn đằng đằng sát khí, bà con buôn bán ở khu Da Heo sợ hắn như một hung thần.

Tất cả người buôn bán đều phải “đóng xâu” cho Tám Lâu để được yên ổn làm ăn. Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày từ đâu mới đến trổ tài đánh đấm, thu phục đám trẻ bụi đời, Tám Lâu thấy có cảm tình Đại.

Thỉnh thoảng Tám Lâu kêu Đại đi nhậu với mình và kết nghĩa anh em. Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước một tay giang hồ uy thế hơn, tên là Bé Bún, người lúc đó được xem là trùm du đảng quận 4, khu vực cạnh hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ.

Bé Bún cậy đông quân, thường kéo qua Cầu Ông Lãnh "thu thuế" bà con thiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu phải làm ngơ cho băng của Bé Bún cướp bóc ngay trên lãnh địa của mình. Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh là Tám Lâu thở ngắn than dài chuyện băng đảng của Bé Bún càng ngày càng lộng hành.

Thằng em Đại Cathay đăm chiêu nghĩ ngợi, nốc cạn ly rượu đế và đề xuất với đàn anh: “Anh Tám để đó em lo. Phải cho tay Bé Bún nằm viện thì đám này mới ngán! Lúc đó anh em mình mới có đất làm ăn”.

“Mày là con nít biết gì chuyện người lớn. Tụi nó mạnh lắm, tao còn thua nó, cỡ mày nó bóp mũi quăng xuống bến Khánh Hội”, Tám Lâu cắt ngang. Đại Cathay chẳng nói chẳng rằng, uống hết ly rượu rồi lặng lẽ bỏ về.

Đại đem chuyện ra bàn với này đám chiến hữu là Ba Binh, Ba Tướng, xong tương kế tựu kế vác dao qua Bến Vân Đồn khiêu khích bằng cách cho vài tay em của Bé Bún sứt mặt mũi. Bị xúc phạm, Bé Bún huy động toàn bộ lực lượng tấn công sang khu Da Heo để hỏi tội Tám Lâu, làm Tám Lâu và đám đàn em hoảng sợ bỏ chạy. Thế nhưng, Tám Lâu chưa kịp chạy thoát thì bất ngờ nghe Bé Bún và các tên du đãng thân cận khóc lóc, ôm đầu máu chạy ngược trở lại.

Thì ra Đại Cathay đã âm thầm cùng các đàn em của mình giăng bẫy, đợi cho băng Bé Bún hung hăng lọt vào thế trận là đánh tới tấp làm cho băng du đãng “người lớn” bị bất ngờ, không kịp trở tay, đành thúc thủ trước bọn du đãng nhóc tì.

Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tuổi 16 - 17 tả xung hữu đột, lăn xả vào chém quân Bé Bún, xong xộc thẳng sang cả bên kia cầu, tràn vào cả “thánh địa” của Bé Bún ở quận 4. Riêng Đại Cathay đã kiên trì đeo theo Bé Bún và “tặng” cho tay giang hồ lừng danh quận 4 này mấy nhát dao, làm cho y phải nằm viện cả tuần.

Sau khi ra viện, Bé Bún và đám đồ đệ không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa. Từ đó “đàn anh” Tám Lâu đâm ớn tài nghệ và sự lì lợm của “đàn em” Đại Cathay. Để rồi chỉ cần thêm một vài “phi vụ” nữa, Tám Lâu phải tự giác tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, rồi nhường hẳn ngôi vị trùm du đảng khu Da Heo cho Đại Cathay, còn mình thì lui về làm “thái thượng hoàng”.

Vậy là, chưa đầy 20 tuổi, Đại Cathay đã trở thành trùm du đãng của khu vực Da Heo, một trong những địa bàn phức tạp nhất Sài Gòn khi ấy. Đại bắt đầu tổ chức thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút... Xong Đại bảo kê tất cả các doanh nghiệp kinh doanh lậu các ngành hàng như xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò rượu...trong khu vực. Đại Cathay bắt đầu ăn chơi và làm mưa làm gió, vươn dần ảnh hưởng ra khắp Sài Gòn – Chợ Lớn, tập tành tiếp xúc với cuộc sống của giới vương giả, quan chức ở Sài Gòn.

Đại Cathay và hành trình thâu tóm các băng nhóm du đãng

Sau khi cả 3 “đại ca” trong giới giang hồ đều bị Đại Cathay “trả nợ” bằng những nhát dao, những “người lớn” đã biết khiếp sợ… Từ đó danh xưng "Tứ đại thiên vương ĐẠI - TỲ - CÁI - THẾ” trong giới du đãng Sài Gòn đã xuất hiện, chính thức xác nhận Đại Cathay đứng đầu trong giới du đãng Sài Gòn.

Đầu những năm 1960, phong trào Hippie bắt đầu thâm nhập vào miền Nam và khuấy động “Hòn ngọc viễn đông”. Phong trào Hippie và chủ nghĩa hiện sinh khuyến khích thanh niên Sài Gòn sống nhanh, sống vội, lao vào ăn chơi. Các nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo tóc tai dị hợm đã mọc lên như nấm, lối kéo thanh niên Sài Gòn mỗi khi chiều về.

Sài Gòn, nơi nhiều băng đảng du đãng

Đại Cathay tuy thất học, nhưng cũng “học làm sang”, tập tành lui tới thế giới ăn chơi vốn chỉ dành cho giới thượng lưu. Trong những lần lui tới chốn ăn chơi thượng lưu ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một số trí thức, văn nghệ sĩ, con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzí Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này chơi bản bản Sayonara rất điêu luyện)...

Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược làm ăn cho Đại Cathay, từ đó mà Đại đã đứng ra cùng với Bảy Si (anh vợ Năm Cam), bà Bảy Trà mở sòng bài lấy xâu ở khu vực chợ Cầu Muối.

Vốn là dân thất học, chỉ quen đâm chém, đánh đấm, ban đầu Đại Cathay không hình dung nổi chuyện quản lý sòng bài, với lại lúc đó đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung...

Thấy họ điều hành sóng bạc quy mô, hiện đại, Đại không nghĩ mình có thể làm được, không cạnh tranh nổi, nhưng Hoàng Sayonara đã “tham mưu”: “Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc,... Còn dân giang hồ, người buôn bán ngại vô đây. Ta mở sòng vừa vừa sẽ kéo khách bình dân, từ từ sẽ kéo luôn khách giàu có”. Đại Cathay đồng ý.

Ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại mở rộng ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với băng của một trùm khu Cây Da Xà tên là Hỏi.

Lúc này Đại đã mua được chiếc Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp "phơi" đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Cả quyền lực và tiền bạc đều đến với Đại Cathay dồn dập trong những năm đầu thập niên 1960.

Đến năm 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng cả Sài Gòn – Chợ Lớn. Hầu hết các nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2, quận 3 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều có phần hùn của Đại dù trên thực tế hẳn chẳng cần bỏ ra một đồng nào.

Đại Cathay và đàn em muốn vào ăn chơi nhảy múa ở đâu cũng được, xong chẳng thèm trả tiền, thậm chí nhiều nhà hàng, quán bar còn lấy làm vinh hạnh vì được “đàn anh” chiếu cố tới ăn uống, coi như cách để bảo đảm không có băng nhóm nào khác dám héo lánh tới quấy phá.

Dù vậy, nguồn lợi lớn hơn cả của Đại Cathay không phải là tiền bảo kê, mà chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn mới là những “nhà tài trợ” tình nguyện để Đại nuôi quân.

Bù lại họ nhờ Đại Cathay làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác, hoặc cần thiết phải đòi một món nợ khó đòi nào đó. Những “khách hàng” của Đại Cathay lúc đó có cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (Vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Hoa là những người đều đặn chu cấp cho Đại.

Cũng nhờ uy thế của các trùm doanh nghiệp, Đại Cathay dần dà tiếp cận được với các nhân vật quyền thế và tên tuổi khác trong bộ máy chính quyền Sài Gòn. Sau khi thống lĩnh khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành một thế lực lớn trong giới du đảng Sài Gòn, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi.

Tuy nhiên, lúc ấy ở Sài Gòn – Chợ Lớn đã có 3 tên tuổi lớn khác trong giới giang hồ, đó đó là Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Thấy Đại Cathay nhỏ mà chơi hỗn, nhiều lần xâm phạm lãnh địa của các đàn anh, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định phối hợp để dằn mặt “thằng nhỏ chưa sạch nước mũi” đã dám “vuốt râu hùm”.

Hai tên giang hồ cộm cán này họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World).

Được sự hậu thuẫn của một tay giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ trường – Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái mời Đại đến vũ trường Aristo để "bàn công việc". Cũng với tính lỳ lợm, coi trời bằng vung, Đại một mình đến hang hùm. Vừa bước vào vũ trường Aristo, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống, xong 4 đàn em của Thế nhất tề rút dao xông vào chém.

Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Hơn 1 tháng sau, khi những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại Cathay đã âm thầm đơn thương độc mã giắt dao vào lưng đi tìm từng tên một trị tội. Cả 3 tên trùm giang hồ Sài Gòn là Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương.

Một điều kinh khủng là sau khi chém Huỳnh Tỳ (cố ý chém trọng thương chứ không để chết), Đại “nhắn” với Ngô Văn Cái là tuần sau sẽ tới lượt hắn vì cái tội chơi bẩn đánh lén không đáng mặt anh hùng.
Vũ nữ Sài Gòn trước năm 1975

Đúng một tuần sau Ngô Văn Cái phải ôm đầu máu đi bệnh viện vì những nhát chém rất nghề của Đại Cathay cùng với lời nhắn cho Ba Thế... Sau khi cả 3 “đại ca” trong giới giang hồ đều bị Đại Cathay “trả nợ” bằng những nhát dao vừa đủ để thẹo cả đời, những “người lớn” đã biết khiếp sợ, gửi lời xin lỗi Đại Cathay. Cuối cùng, nhờ Tám Lâu, Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp và dàn xếp, Đại Cathay mới đồng ý "hòa giải". Từ đó danh xưng "Tứ đại thiên vương ĐẠI - TỲ - CÁI - THẾ” trong giới du đãng Sài Gòn đã xuất hiện, chính thức xác nhận Đại Cathay đứng đầu trong giới du đãng Sài Gòn.

Xã hội miền Nam khi ấy với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa làm gió. Đại Cathay đứng ra bảo kê cho nhà hàng, vũ trường, sòng bạc, đến lượt các quan chức bảo kê lại cho Đại Cathay.

Thuở ấy Cò Ly, quận trưởng quận 1 đã công khai bảo kê cho Đại Cathay. Hàng tháng, Đại đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông Cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường nhà hang sang trọng ăn chơi, đập phá thâu đêm.
Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm.

So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Tuy nhiên, vì quá khiếp sợ trước uy danh của Đại Cathay, nhất là khi nhận lời mời của giới Hắc Đạo, Đại một mình tay không lên nhà hàng Đồng Khánh hội kiến với Tín Mã Nàm, cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục.

Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền. Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo.

Kể từ đó, gần như thế giới giang hồ cả Sài Gòn – Chợ Lớn đã về thuần phục với trướng của Đại Cathay. Thằng nhỏ bụi đời thất học ngày nào giờ có thể làm thay đổi cả xã hội Sài Gòn nếu nó muốn.

Tướng Nguyễn Cao Kỳ muốn thu phục Đại Cathay

Với bản tính cao bồi của mình, thay vì trị Đại về tội ngông nghênh coi thường pháp luật, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã nghĩ ra cách mà ông thú vị, đó là chinh phục Đại.
Làm vua không ngai

Như đã nói, Đại vốn thất học, tên mình viết còn không xong. Thế nhưng, chữ ký của Đại lại là một giai thoại truyền nhau trong giới giang hồ. Người ta đồn rằng, một “đại ca” tên là Chà Và Hương dạy cho Đại cách ký tên.

Trong một lần đi Đà Lạt, Hương đã hướng dẫn Đại ký chữ “Đ” giống như chiếc cung của người thượng quay ngược lại. Còn “chữ “A” giống như hình biển báo giao thông và gạch ngang giữa. Trong khi chữ “I” là một thanh sắt cắm từ trên xuống đất rồi đóng một cái đinh vào phía dưới. Đó là tên của Đại. Đại chỉ cần ký vào tờ giấy viết sẵn và đệ tử chỉ việc cầm đến các nhà hàng, vũ trường lấy tiền, ai nhìn thấy chữ ký ngộ nghĩnh ấy cũng phải xì tiền ra ngay.

 
Đại Cathay
Đại rất phóng khoáng, do vậy mỗi lần hắn ngồi đánh bạc ở đâu là nơi đó đám du đãng, nghiện ngập tập trung vất vưởng bên ngoài để chờ được bố thí. Có những người quê tận miền Tây sau khi mãn hạn tù cũng đến rạp Cathay để tìm Đại xin tiền mua vé xe về quê.

Có lần để tỏ ra là một trùm giang hồ hiệp nghĩa, Đại đã cho một người cơ nhở hẳn chiếc xe máy để làm phương tiện đi về. Mỗi lần sắp có trận đánh để lấn chiếm lãnh địa, Đại luôn cho đàn em đi tới đó trước để làm từ thiện nhằm thu phục nhân tâm trước khi vào bảo kê khu vực. Có người đã được Đại biếu số tiền lớn để mở sạp hàng.

Cũng giống như một bộ phận dân Sài Gòn du nhập lối sống phương Tây, Đại Cathay cũng rất mê nhảy đầm, cặp bồ với các văn nghệ sĩ, tài tử... Không chỉ đại ca giang hồ, mà giới tướng lĩnh Sài Gòn cũng chạy theo trào lưu thời thượng này, mà điển hình nhất là tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ.

Một lần Đại Cathay tình cờ diện kiến Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó là trung tá không quân) trong vũ trường, Đại Cathay không chừa được thói ngông nghênh, bị Nguyễn Cao Kỳ phê phán. Không ngờ, sự thể hiện uy quyền không đúng chỗ của Nguyễn Cao Kỳ đã phải trả giá bằng một quả đấm như trời giáng vào bụng.

Giữa chốn đông người, Nguyễn Cao Kỳ dù tái mặt tức tối nhưng không thể làm gì hơn, để không lùm xùm lớn chuyện, Kỳ đành im lặng rời khỏi vũ trường. Không ai có thể nói cú đấm của Đại Cathay ngày hôm đó có liên quan gì đến cái chết của hắn ngoài đảo Phú Quốc sau này không?

Thời ấy, nhiều tướng lĩnh quân đội, cảnh sát vì bất lực cũng có mà vì “đi đêm” với thế giới giang hồ cũng có, nhiều tướng lĩnh cũng muốn dựa vào bọn du đảng để làm hậu thuẩn cho mình.
Ngày ấy, sau trận hỗn chiến giữa Đại Cathay với Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế đã đưa Đại lên đứng đầu du đảng Sài Gòn. Rồi trận thu phục băng đảng người Hoa của Tín Mã Nàm đã làm cho Đại Cathay lập nên một đế chế mà khắp Sài Gòn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu.

Bộ máy chính quyền Sài Gòn như cũng bất lực, tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ phải “xuống nước” mời Đại ra làm nhân viên công lực quốc gia; rồi tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan mời làm đại úy cảnh sát, thế nhưng Đại từ chối tất, chỉ muốn làm trùm du đảng.

Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người đi đường khiếp vía, hắn ngồi chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần, theo sau hộ tống là cả chục tên đàn em phóng xe máy. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố...

Tướng Nguyễn Cao Kỳ muốn thu phục Đại Cathay
 

Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay và băng du đảng của hắn ngày càng làm cho những quan chức và cảnh sát ngụy mang tiếng, cảm thấy bối rối.

Vài lần Đại bị bắt và bị tống cổ vào khám như để trấn an dư luận, nhưng chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Mà cũng có thể họ cố tình muốn thả Đại vì tên trùm du đảng này đã ăn chịu với rất nhiều quan chức Sài gòn.

Với bản tính cao bồi của mình, thay vì trị Đại về tội ngông nghênh coi thường pháp luật, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã nghĩ ra cách mà ông thú vị, đó là chinh phục Đại. Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, tướng Nguyễn Cao Kỳ bèn cho gọi tên du đãng đến.

Gặp Đại, tướng Kỳ nói giọng bề trên: “Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được”.

Tướng Kỳ vừa dứt lời, Đại Cathay đã trả lời ngay: “Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?”. Tướng Kỳ bị chạm tự ái nhưng vẫn kềm chế, thuyết phục: “Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi”. Đại Cathay dứt khoát: “Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được…”.

Vậy là, sau cái lần đấm thẳng vao bụng Nguyễn Cao Kỳ ở vũ trường, Đại Cathay lại có dịp diện kiến với tướng râu kẻm, và lần này Đại Cathay cũng ở thế thượng phong trước tay tướng nổi tiếng là cao bồi này.

Nguyễn Cao Kỳ không thu phục được Đại Cathay, đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô Thành, thử ra oai với Đại.

Tướng Loan đã tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”, rồi  cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình Triệu và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt các băng nhóm du đảng, do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Nguyễn Ngọc Loan cho phép “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên du đảng nào nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát.

Vừa giương “cây gậy”, Nguyễn Ngọc Loan vừa chìa “củ cà rốt” về phía Đại Cathay, với mong muốn sẽ thu phục được tên trùm du đảng này, sẽ “dĩ độc trị độc”, dẹp yên nạn du đảng trên đất Sài Gòn – Chợ Lớn. Nguyễn Ngọc Loan cho mời Đại Cathay đến Nha Cảnh sát Đô thành và nói: “Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng”.

Đại Cathay thẳng thừng từ chối: “Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt”.

Nguyễn Ngọc Loan tiếp tục dằn mặt: “Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành. Tôi không thể để anh muốn làm gì thì làm. Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu còn tôi, du đãng sẽ không còn đất sống!”. Đại Cathay trả lời: “Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được”. Cuộc gặp kết thúc. Nội dung các cuộc gặp nói trên đã nhanh chóng lan truyền trong giới du đảng và tiếng tăm Đại Cathay càng nổi như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu hùm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của Nguyễn Ngọc Loan ban cho.

Trùm giang hồ Đại Cathay chết vì... đùa với lửa

Khi đã thâu tóm được hầu hết các băng du đảng có tiếng tăm ở Sài Gòn, Chợ Lớn, danh tiếng và tiền bạc đều lên như diều gặp gió, Đại Cathay cứ ngỡ mình là nhất thiên hạ, xem thường mọi thứ trên đời. Đến cả tướng Nguyễn Cao Kỳ và tướng Nguyễn Ngọc Loan mà Đại Cathay cũng chẳng xem ra gì.

Thậm chí, Đại Cathay còn bị gán cho là đã gây ra vụ tai nạn giao thông làm chết người sĩ quan thân cận của Nguyễn Ngọc Loan vì hiềm khích cá nhân. Việc gì đến rồi cũng đến, Đại Cathay đã phải chết vì dám vuốt râu hùm, dám đùa với lửa!
Cái chết của đại úy thân cận Nguyễn Ngọc Loan

Đại Cathay ngày càng ngạo mạn, lộng hành. Không chi ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và trọng trách trong ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ.

Vũ trường Olympic là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới, cũng là nơi chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan giải sầu hàng đêm. Trong khi viên tướng có máu giang hồ và đám lính tới vũ trường một cách xô bồ, bụi bặm, thì Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hoà không khí, choáng lộn.

So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại Cathay và các đồ đệ tỏ ra hơn hẳn, rút tiền chẳng bao giờ đếm, được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Đám vệ sĩ của tướng Sáu Lèo tức lắm, nhưng chưa có dịp gây hấn.

Một buổi tối, sau một ngày “thu thuế” vượt chỉ tiêu, Đại Cathay và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối kéo đến vũ trường Olympic để “đập phá”. Như lệ thường, đám cave ùa tới vây lấy các “đại ca”. Trong lúc cả đám du đảng đang vui vẻ với các cave, bất ngờ cánh cửa vũ trường mở toang. Đám lính của Sáu Lèo trong những bộ đồ rằn ri xộc vào, kéo ghế ngồi, nhưng không thấy cô cave nào đến phục vụ, trong khi ở bàn bên băng nhóm du đảng giỡn hớt với các cave.

Một cận vệ của tướng Nguyễn Ngọc Loan là thiếu úy Hải rời khỏi bàn, đến đứng đối diện với Đại Cathay, hất hàm nói: “Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?”. Vẫn không buông vai cô cave, một cận thần của Đại là Hải Súng hất mặt nói: “Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì?”. Tay thiếu úy đưa tay vào bụng cố ý làm lộ khẩu súng và nói: “Đừng chơi quê tụi này chớ!”.

“Thì đã sao. Thịt người tanh không ăn được, đừng doạ nhau, tụi này không thích!”. Bị khiêu khích, tên thiếu úy Hải xấn tới chụp lấy tay cô cave kéo về phía mình, tuyên bố: “Không thích cũng bắt!”.

Hải Súng chụp chai Black and White trên bàn ném mạnh vào mặt đối thủ. Thiếu úy Hải buông cô cave, tránh đòn và móc súng. Đại Cathay hét lên: “Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây”.

Băng của Đại chưa kịp chạy thì các loạt súng đã nổ, một viên đạn trúng vào đầu gối Đại làm y gục xuống. Hải Súng xốc Đại lên bỏ chạy khỏi vũ trường, trong lúc Lâm Chín ngón có giắt súng theo đã đọ súng cầm chân đám lính, hai bên bắn loạn xạ, nhưng vì đèn trong vũ trường vút tắt, nên không gây thương vong gì thêm.

Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được Hải Súng dìu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường, rồi được chiếc Mustang chở khỏi hiện trường. Tuy nhiên, sau đó nhiều đàn em của Đại Cathay cũng bị cảnh sát truy bắt, tống giam vào bót. Thoát chết trước họng súng của cảnh sát, nhiều “chiến hữu” lại bị cảnh sát bắt giam, Đại Cathay như biết điều hơn. Một buổi tối, hắn bao nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc.
Đại Cathay mở lời: “Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh…”. Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, đã từ chối thẳng thừng: “Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu!”.

Bình thường thì có lẽ máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên, nhưng do đang yếu thế nên Đại vẫn nhỏ nhẹ: “Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi. Còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì”.

Nguyễn Ngọc Loan

Sau buổi tiệc đó không lâu, đại úy Trần Kim Chi đã bị một chiếc xe chở gỗ bất ngờ đụng ngang qua chiếc xe hơi CV2 của ông ta khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ, làm ông ta chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất. Cả giới du đảng Sài Gòn và lực lượng cảnh sát ngụy đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại đại úy Trần Kim Chi.

Bỏ mạng nơi hải đảo

Cái chết của Trần Kim Chi cũng là dấu chấm hết của cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8/1966, tướng Nguyễn Ngọc Loan đã ra lệnh bắt tống giam Đại Cathay với tội danh “Du đãng đặc biệt” cùng với nhiều trùm du đảng khác ở khắp Sài Gòn.

Hôm tướng Loan gửi giấy triệu tập Đại do đại úy Chi mang tới, tên trùm du đảng vẫn nghênh ngang, hỏi người đem giấy triệu tập: “Ông Loan mời tôi hay bắt tôi? Nếu bắt thì đưa còng số 8 vào đây, còn nếu mời thì 30 phút nữa tôi sẽ có mặt tại Tổng nha cảnh sát”.

Đại úy Chi chạy về Tổng nha báo lại cho Loan biết và đúng 30 phút sau thì thấy xe của Đại chạy đến. Đại vẫn nghĩ rằng như bao lần khác, tướng Loan mời hắn đến để thuyết phục, hoặc cùng lắm là tạm giam vài hôm cho có lệ rồi thả ra. Thế nhưng, tên trùm du đảng đã không thể lường trước tình huống xấu nhất, đó là chuyến đi cuối cùng của hắn.

Ngày 28/11/1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc. Trước khi bước chân lên máy bay, Đại còn quay lại đấm một cảnh sát dập sống mũi chỉ vì hắn nghe loáng thoáng người này nói một câu gì đó không hay về hắn.

Cùng bị lưu đày hải đảo với Đại Cathay có một số giang hồ cộm cán như Bảy Si (anh vợ Năm Cam sau này), Lâm Chín Ngón, Hải Súng... Biết chuyến lưu đày ngoài đảo “lành ít dữ nhiều”, vợ của Đại treo giải 1 triệu đồng sau đó nâng lên 1,5 triệu nếu ai đưa được Đại về lại Sài Gòn. Trên đảo Phú Quốc, Đại và nhóm trùm du đảng bị nhốt trong cái gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”.

Trại là những dãy nhà dã chiến lợp tôn thấp lè tè nằm trong rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông.

Gọi là “hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo: “Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi!”. Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất: “Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó”. Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng” và chết tên từ đó.

Trại “Cửu Sừng" chẳng những không “hướng nghiệp” được đám du đảng, mà trái lại nơi đây đã làm cho chúng kết tình “huynh đệ” sâu nặng hơn, để sau này khi được thả về đất liền, chúng tiếp tục trở thành những băng nhóm du đảng còn dữ dội hơn trước lúc ra đảo. Toàn bộ đám du đãng bị bắt đưa ra đảo như Hải Súng, Hoà áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao... sau này đều là những tên du đảng cộm cán nhất của Sài Gòn – Chợ Lớn.

“Trại Cửu Sừng” như một con dấu để xác nhận “đẳng cấp giang hồ” của những tên du đảng, tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này nghiễm nhiên trở thành đàn anh, được những tên du đảng trong đất liền nể phục, tôn làm đại ca. Duy chỉ có Đại Cathay là ngoại lệ.

Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay tên là Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường Olympic. Chính trong những ngày tới “đập phá” vũ trường Olympic, Đại đã lọt vào mắt xanh của cô Nhân bởi tính khi ngang tàng mà nghĩa hiệp của Đại. Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình khó có ngày trở về Cô Nhân cùng anh trai treo số tiền 1,5 triệu đồng, là số tiền cực lớn lúc đó, cho ai có cách cứu Đại Cathay đem về đất liền. Món hời này đã được đại tá Long - một sĩ quan thuộc lực lượng Hải quân chỉ huy tàu tuần lưu - nhận giúp đỡ.

Đó là vào đầu tháng 1/1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại Cửu Sừng. Gặp Đại Cathay, cô báo cho chồng biết đã lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Theo kế hoạch, đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn dưới bãi biển để đưa đám tù ra khơi, rồi có tàu hải quân do Nhân thuê sẵn rước Đại về đất liền.

Theo đúng kế hoạch, Đại Cathay và khoảng một chục đàn em trong đó có Xì Kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón cùng vượt ngục.

Nhưng đến phút cuối, Đại Cathay theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón ở lại, vì tính Lâm lóc chóc, dễ làm bể chuyện.

Để cho an toàn, trước  giờ khởi sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo: “Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách”.

Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ nhằm làm cho Lâm phê thuốc ngủ say, bảo đảm an toàn cho chuyến đi của cả bọn. Đúng 12 giờ đêm ngày 7/1/1967, Đại Cathay dẫn cả bọn đàn em đào thoát ra ngoài. Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh.

Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Thế nhưng, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột,.. bị bắt lại ngay.

Đại Cathay và Hải Súng vội đổi kế hoạch, chạy vào khu núi Tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Cùng lúc, có tiếng của nhiều chiếc máy bay trực thăng trên đầu, cùng ánh sáng của hỏa châu sáng vằng vặc. Nhiều loạt đạn từ máy bay bắn xuống, người ta còn nghe nhiều tiếng la hét vọng ra từ rừng sâu.

Kể từ đó không ai còn gặp đại Cathay nữa, có lẽ hắn đã bỏ mạng vì những loạt đạn lúc nửa đêm trên núi Tượng, rồi rơi xuống vực sâu nào đó mất xác. Lúc đó, dư luận ở Sài Gòn đặt ra nhiều khả năng về sự biến mất của Đại Cathay, như hắn đã trốn thoát rồi vượt biển qua Campuchia, đi luôn ra nước ngoài lánh nạn. Cũng có tin đồn là Đại Cathay đã lần về được Sài Gòn và sống ẩn dật với vợ là cô Nhân.

Lại có đầu óc tưởng tượng phong phú hơn khi đặt ra giả thuyết Đại Cathay bị các chiến sĩ giải phóng trên núi Tượng cứu chữa vết thương, rồi cảm hoá trở thành chiến sĩ giải phóng. Sau ngày giải phóng, hồ sơ về cái chết của Đại Cathay đã làm sáng tỏ: Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên du đảng làm bẽ mặt, nhất là sau khi cái chết của đại úy Trần Kim Chi mà ai cũng cho là do Đại Cathay tạo ra, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay.

Sau khi bắt đưa Đại ra Phú Quốc, tướng Loan vẫn chưa có cách gì để tiêu diệt Đại mà không làm náo động Sài Gòn. Qua nguồn tin của đám lính thân cận, tướng Sáu Leo biết cô Nhân – vợ Đại – đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám du đảng đàn em, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng.

Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ chôn không để lại dấu vết.

Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay.

Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn sự việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay.

Cái chết bí ẩn của “Đệ nhất giang hồ” Sài thành ngày trước

20 tuổi, Đại Cathay trở thành nhân vật giang hồ khét tiếng nhất Sài Gòn ngày trước. Nhưng rồi có lừng lẫy đến mấy thì cuộc đời hắn cũng đã phải kết thúc từ khi còn rất trẻ. Một cái chết chui rúc và nhiều bí ẩn.

Trở thành Đệ nhất giang hồ
Sự dung túng của hệ thống chính quyền chế độ cũ trong thời điểm đó cũng là một cơ hội để Đại Cathay bành trướng thế lực. Lực lượng cảnh sát thời điểm đó đáng lẽ ra phải thanh trừng triệt để thế lực của Đại thì lại bao che, và im hơi lặng tiếng để nhận những khoản lót tay hậu hĩnh. Được thể, Đại càng ngông cuồng và chẳng ngán ngại một ai.

Đầu những năm 1960, Đại Cathay mới hơn 20 tuổi và đã trở thành một ông trùm khét tiếng. Hắn nhận bảo kê và còn có thêm các khoản bồi dưỡng của rất nhiều các đại gia Sài Gòn khi đó. Gần như hầu hết nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Đại Cathay và đàn em không phải trả bất kỳ một khoản tiền nào cho việc ăn chơi, trác táng. Tất cả những nơi hắn đến đều coi sự hiện diện của hắn là một vinh dự lớn lao.

Đại Cathay và vợ

Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với tầng lớp trí thức, con nhà gia thế. Trong đó, đáng kể nhất phải kể đến Hoàng Sayonara, người sau đó đã trở thành quân sư chiến lược của Đại. Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng ra cùng với Bảy Si (người này là một giang hồ khét tiếng, là anh vợ và từng là đàn anh của Năm Cam thuở thiếu thời) mở nhiều sòng bài để thu tiền xâu.

Nhưng khi ấy, Sài Gòn còn có ba ông trùm khác. Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế hoàn toàn không hài lòng với sự bành trướng của Đại Cathay. Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định hạ bệ Đại. Một lần hẹn gặp Tỳ và Thế cùng 3 tên đàn em, do không đề phòng, Đại Cathay đã bị phục kích. Năm tên giang hồ đồng loạt rút dao xông vào chém. Đại Cathay may mắn không chết. Không kịp lành vết thương, Đại một mình một dao, lần lượt tìm các tên đã chém mình để rửa hận. Tất cả đều bị chém trọng thương. Sau cuộc thanh toán đẫm máu ấy, Đại Cathay trở thành nhân vật số một trong “Tứ đại thiên vương” của giang hồ Sài Gòn: Đại - Tỳ - Cái - Thế. Thật sự thì sau này, ngoài bộ tứ trên, giang hồ lừng danh còn có thêm Lâm "chín ngón", một đàn em thân tín của Đại.

Trở lại với Đại Cathay, cuộc đụng độ dữ dội nhất trong cuộc đời giang hồ đầy tội lỗi của Đại là với Tín Mã Nàm, trùm giang hồ người Hoa nổi tiếng Sài Gòn - Chợ Lớn. Tín Mã Nàm vốn là người có thân hình hộ pháp, từng nhiều năm học Thiếu Lâm Hồng Gia và Thái Lý Phật... Trên thực tế thì Tín Mã Nàm chưa bao giờ chịu đứng dưới Đại Cathay. Tín Mã Nàm tên thật là Trần Hà Tư, vốn là một tay Thầu Dậu (Đầu Gà), lấy biệt hiệu là Tín Mã Nàm với ý nghĩa là con ngựa điên.

Được coi là một tên tuổi giữ vai trò Hồng Trượng, một bậc đàn anh lớn trong giới giang hồ Hoa Kiều, đại diện Hội Tam Hoàng thuộc chi nhánh Sài Gòn - Chợ Lớn. Cuộc đụng độ giữa băng nhóm của Đại Cathay và Tín Mã Nàm diễn ra nhiều năm liền. Bắt đầu bằng những cuộc tập kích của phe Đại. Nhận thấy mối nguy hại từ những cuộc tập kích ấy nhưng Tín Mã Nàm không sao xử trí được. Đầu năm 1964, Đại dẫn theo Ba Thế và Lâm “chín ngón” đột ngột tấn công vào băng nhóm của Tín Mã Nàm tại một quán nước. Và, Đại Cathay thất bại.

Tuy nhiên, cuộc tập kích quá liều lĩnh ấy khiến Tín Mã Nàm phải mời Đại Cathay đến gặp để điều đình. Tay không, một mình chui vào hang cọp, Đại khiến Tín Mã Nàm rất kính nể. Đại được Tín nhường cho một phần địa bàn và Đại cũng cam kết không xâm phạm vào những khu vực được coi là đặc quyền của Tín. Khoảng giữa thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Đại Cathay đã trở thành đệ nhất giang hồ.

Vuốt oai hùm và cái chết nhiều bí ẩn

Đại Cathay có thù riêng với viên thiếu tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ. Trong một lần gặp nhau trên sàn nhảy, Đại Cathay bị Nguyễn Cao Kỳ (thời gian đấy, Kỳ mới đeo lon Trung tá) nhắc nhở. Ngay lập tức, ông Kỳ râu kẽm bị giáng ngay một quả đấm giữa bụng. Đại Cathay mãi mãi không biết được rằng mình đã chính tay ký vào bản án tử hình đúng ngày hôm đó. Từng có giai thoại kể rằng: Tướng Kỳ từng chiêu dụ Đại về làm vệ sỹ cho ông ta, nhưng Đại thẳng thừng từ chối với lý do: "Tôi đi đâu cũng có người hộ tống, nếu tôi hộ tống ngài, các vệ sỹ của tôi sẽ thất nghiệp".

Thiếu tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan thời ấy còn là Chuẩn tướng, giám đốc Nha cảnh sát Đô Thành đầy tai tiếng với vụ xử bắn tù nhân tàn nhẫn ngay tại đường phố Sài Gòn. Ông Loan là người quyết liệt nhất trong việc bài trừ du đãng thời điểm ấy. Ông ta lập ra Biệt đội hình cảnh nhằm tiêu diệt giang hồ, và cử người thân cận của mình là đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Nhưng nếu xét về thời điểm loạn lạc ấy, thì những cố gắng của ông Loan như muối bỏ bể. Ông Loan đã ra sức chiêu dụ Đại.
- Anh sẽ có lon đại úy, chức danh phó ty Cảnh sát một quận nếu anh chịu giúp chúng tôi trong việc thanh trừng các thế lực giang hồ ở Sài Gòn.
- Xin lỗi, tôi không thể hầu Chuẩn tướng được. Tôi làm thế, sao còn có thể sống mà ngẩng mặt nhìn ai ở đời này.

Đại Cathay không sợ hãi trước công quyền, cũng bởi một lẽ trên đời không có gì làm hắn phục. Trong một cuộc đọ súng vì giành gái tai tiếng vào khoảng năm 1966 giữa băng nhóm Đại với một số viên thuộc cấp của tướng Nguyễn Ngọc Loan, dù Đại Cathay bị bắn trọng thương nhưng hắn đã nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn. Một loạt các thành viên trong băng nhóm bị bắt, bị tống giam và bản thân Đại Cathay cũng nằm trong vòng nguy hiểm. Cuộc điều đình với viên đại úy hình cảnh Trần Kim Chi trong việc trả tự do cho các đàn em bất thành. Băng nhóm của Đại bắt đầu nhận về sự trừng phạt triệt để.

Cái chết của đại úy Trần Kim Chi là một cái chết không minh bạch. Chiếc xe tải chở gỗ đã tông thẳng vào xe của ông ta khiến ông ta thiệt mạng, nhưng những lời đồn đại về một vụ mưu sát do Đại Cathay cầm đầu đã khiến tướng Nguyễn Ngọc Loan tức giận. Đại Cathay bị tống giam và cuối tháng 11/1966, Đại cùng một loạt đệ tử của mình được đưa lên một máy bay vận tải và ném thẳng vào nhà giam tại đảo Phú Quốc. Chính Đại là người đã đặt tên cho Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc ấy trở thành trại Cửu Sừng. Trong một lần chơi mạt chược cùng đám du đãng, Đại chán ngán bốc lên con bài Cửu Sừng và quyết định lấy tên con bài đặt cho tên trại. Tất cả những tay giang hồ nằm trại thời điểm này, về sau, đều trở thành những tay anh chị khét tiếng nhất Sài Gòn.

Là một tay giang hồ vốn quen tự do, Đại không thể sống quá lâu trong tù túng. Kế hoạch vượt ngục được hắn vạch ra. Tiền và vàng từ ngoài đất liền được vợ và đàn em chu cấp. Đại quyết định trốn khỏi trại Cửu Sừng với lời hứa giúp đỡ của một vài viên sĩ quan bảo an trong trại.
Rạng sáng ngày 7/1/1967, Đại Cathay gọi Lâm chín ngón vào ngồi cạnh. Đại nhắn nhủ: Anh đi phen này lành ít, dữ nhiều. Mày ở lại, phải bỏ ma túy đi. Mày còn nhỏ, tính còn nông nổi, cố gắng ở lại, rồi lúc về được anh sẽ lo cho mày ra khỏi trại.

Chích xong cho Lâm mũi thuốc cuối cùng, Đại và các đàn em khác tiến hành trốn trại. Tốp trốn trại được chia đôi thành hai đường. Đại đã không gặp may. Tốp thứ nhất chạy trốn để nghi binh đã nhanh chóng bị tóm lại. Đại Cathay và đàn em thân tín nhất của mình, Hải Súng, biết không còn cách nào khác phải đổi đường chạy ngược lên phía núi Tượng thuộc đảo Phú Quốc. Kể từ đó, không ai còn được thấy Đại Cathay và Hải Súng đâu nữa.

Báo chí Sài Gòn thời điểm đó không nói gì thêm về cuộc mất tích bí ẩn này. Nhưng theo nhiều người kể lại: Ngay trong đêm 7/1/1967, một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại Cathay và Hải Súng, và được lệnh bắn hạ. Toán biệt kích giả trang làm quân Cách Mạng và sử dụng súng AK47 để tiêu diệt hai tên này. Thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng: Chính tay ông ta đã nổ súng hạ gục Đại Cathay.

Với mối thâm thù của Đại Cathay và hai viên tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan cùng với sự lộng hành của Đại thì giai thoại về cái chết của hắn hoàn toàn có cơ sở. Một cuộc đời tội lỗi, dù lẫy lừng đến mấy thì cũng chỉ kết thúc trong tội lỗi mà thôi.
                                                                                                                                                                             Theo: http://www.tinmoi.vn

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review