Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Chân trời tím và cuộc tình bất ngờ
Lê Hoàng Hoa là đạo diễn thực hiện 3 phim trên màn ảnh rộng đầu tiên ở Việt Nam, trong đó có Chân trời tím với chi phí cao nhất, mang lại doanh thu lớn nhất tại Sài Gòn đầu thập niên 1970.
Sau 6 năm du học ở Mỹ về điện ảnh tại thành phố Clarkesville bang
Georgia (1952 - 1958), Lê Hoàng Hoa về nước năm 25 tuổi. Lúc đầu ông làm
việc theo hợp đồng đã ký với chương trình International Cooperation
Administration đảm trách đạo diễn phim thời sự tài liệu ngoài Trung. Hai
năm sau hết hợp đồng (1960), ông rời Huế vào Sài Gòn cộng tác với Trung
tâm điện ảnh lúc bấy giờ vừa thành lập xong. Sau phim tài liệu đầu tiên
thực hiện trên màn ảnh rộng (còn gọi: màn ảnh đại vĩ tuyến): Cảnh đẹp
miền Nam, dài 32 phút với Lệ Thu, Minh Hiếu, Kiều Oanh, tên tuổi ông
ngày càng được biết đến nhiều hơn. Tiếp đó ông hoàn thành phim 11 giờ 30
cũng ở dạng màn ảnh rộng với các diễn viên Lê Quỳnh, Mộng Tuyền, Đoàn
Châu Mậu, Trần Đỗ Cung, Minh Đăng Khánh. Đến Chân trời tím thì danh
tiếng và tài năng của ông vượt lên hàng đầu trong giới các đạo diễn trẻ
đương thời. Ông thực hiện thêm một loạt phim khác như Điệu ru nước mắt,
Gác chuông nhà thờ, Con ma nhà họ Hứa, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Bẫy
ngầm, Năm hiệp sĩ bất đắc dĩ, Triệu phú bất đắc dĩ, Người chồng bất đắc
dĩ... tất cả đều ra mắt trước năm 1975. Sau 1975, một lần nữa, thành
công lại đến qua bộ phim Ván bài lật ngửa do ông đạo diễn được công
chúng cũng như giới báo chí đón nhận nồng nhiệt. Hiện ông sống tại Ba
Lan và vào giữa năm nay đã về thăm Việt Nam, ngụ tại “mái nhà xưa” của
mình trong hẻm 351 Lê Văn Sỹ, Q.3, TP.HCM.
Chúng tôi đến thăm, được ông đưa mượn cuốn bút ký Những tháng ngày
làm phim do ông viết chưa xuất bản, chỉ mới đăng một phần trên tạp chí
Kịch Ảnh ấn hành bên Mỹ. Dựa vào nội dung bút ký trên, cũng như một số
hồi ức do ông trực tiếp kể lại, chúng tôi trích lược dưới đây những nội
dung liên quan đến hoạt động của điện ảnh Sài Gòn năm xưa. Mà trước nhất
là chuyện làm phim Chân trời tím - bộ phim điển hình đánh dấu đỉnh cao
trong hoạt động nghệ thuật của ông thời trước, cũng là bộ phim để lại kỷ
niệm đậm đà về một cuộc tình bất ngờ đã đến với ông ngoài đời đúng vào
ngày bấm máy...
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương vào phim với Nửa hồn thương đau
Đó là ngày 11.12.1969 - ngày thu hình phân đoạn (sequence) đầu tiên
của phim Chân trời tím tại khách sạn Continental với cảnh nhân vật chính
là ca sĩ Liên (Kim Vui đóng) đang buồn thương rã rời khi biết tin người
yêu mình bị đẩy ra tiền đồn xa xôi, khó mong ngày gặp lại nên đưa nỗi
niềm vào tiếng hát. Để tìm bài hát thích hợp với tâm thái của Liên trong
phân đoạn ấy, Lê Hoàng Hoa và Tổng giám đốc Liên Ảnh Công ty (đơn vị
đầu tư sản xuất phim) là ông Quốc Phong (chủ nhiệm tạp chí Kịch Ảnh)
cùng “đến phòng trà Đêm Màu Hồng gặp nhạc sĩ Phạm Đình Chương tức ca sĩ
Hoài Bắc để nhờ sáng tác một bản nhạc riêng cho phim Chân trời tím. Đó
là nhạc phẩm Nửa hồn thương đau” (Bút ký Những tháng ngày làm phim của
Lê Hoàng Hoa). Như vậy, nhạc phẩm nổi tiếng ấy được Phạm Đình Chương
viết cho phim Chân trời tím năm 40 tuổi (sau thời phải xót xa chia tay
với vợ là ca sĩ Khánh Ngọc) và được phổ biến qua tiếng hát của em gái
ruột Phạm Đình Chương là ca sĩ Thái Thanh (Phạm Thị Băng Thanh). Nơi
quay phân đoạn trên là phòng ăn của khách sạn Continental do nhân viên
phụ trách dàn dựng của đoàn phim khéo sửa thành một “phòng trà ca nhạc”
để nhân vật Liên sẽ lên hát. Theo ý đạo diễn, để gây ấn tượng mạnh về
nỗi cô đơn của Liên, không nên có mặt toàn ban nhạc đệm ở phía sau Liên
mà chỉ có “một nhạc sĩ kéo violon đứng cạnh ca sĩ và thật dễ thương khi
nhạc sĩ Phạm Đình Chương đồng ý với tôi là anh sẽ đảm nhận vai người kéo
violon đó”. Ấn định sẽ bấm máy lúc 7 giờ tối hôm ấy.
“Tà áo tím” trên phim trường
Khoảng 4 giờ chiều, số đèn spot và flood light chuyển từ Trung tâm điện
ảnh và các hãng phim Mỹ Vân, Alpha đến khách sạn Continental đã xong.
Phải hai người mới vác nổi một cây đèn khổng lồ 10.000 watt với “mỗi
bóng đèn to bằng cái đầu người”. Những sợi dây cáp to bằng cổ tay giăng
và “những ống tròn bằng nhôm được ráp lại thành một dàn đèn trên bục
hát, một đường ray dùng để làm dolly chạy dài từ bục hát đến cuối phòng”
(Bút ký). Ngoài diễn viên chính Kim Vui, tham gia trong “phân đoạn
phòng trà” còn có Ngọc Đức (vai Paul), Ngọc Phu (đại úy Minh) và Phạm
Đình Chương (nhạc sĩ kéo violon). Đến 5 giờ, Lê Hoàng Hoa đang dò lại
lần nữa bản phân cảnh bỗng nghe cô thư ký phim trường (script girl) báo
cho biết có một cô bé tên Linh muốn gặp ông gấp. Ông chưa hiểu chuyện
gì, một cô bé xinh đẹp với “mái tóc dài óng ả trong chiếc áo dài màu tím
than làm nổi bật làn da trắng mịn” đã bước vào trước mặt, nói một cách
tự nhiên: “Em tên là Diệu Linh, 17 tuổi học sinh trường Trưng Vương muốn
gặp đạo diễn không phải để xin đóng phim”. Ông mỉm cười. Cô bé lại nói
mình muốn vào coi quay phim như thế nào thôi. Ông đáp quá dễ, chỉ cần
đóng vai khán thính giả (vai quần chúng) của bộ phim ở khoảng cách xa xa
các nhân vật chính một chút sẽ tha hồ coi. Cô bé nói lại:
- Nhưng em không thích đóng phim, em nói thật đó.
- Vậy thì chỉ còn cách là cô đóng vai người yêu của đạo diễn mới vào trong sàn quay được.
Nghe thế, cô bé đỏ bừng mặt đứng im. Đó là “hình ảnh một buổi chiều” khó quên trong chuyện tình sẽ kể của ông...
Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Kỳ 2: Đạo diễn ở phim trường và trên... mây xanh
Có thể hình dung rõ nét công việc bận rộn của một đạo diễn trên phim trường Sài Gòn cách đây hơn 40 năm theo lời kể của Lê Hoàng Hoa trong bút ký của ông về những ngày quay phim Chân trời tím từ cuối năm 1969.
Vứt cả xe hơi vào sọt rác
Cuối năm ấy ở Sài Gòn “có tất cả 21 hãng phim”, trong đó 7 hãng liên
kết và hợp nhất thành hãng phim lớn lấy tên Liên Ảnh Công ty thực hiện
tác phẩm điện ảnh đầu tiên của hãng: Chân trời tím, với kịch bản dựa vào
tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Văn Quang. Một trong 7 “cột trụ” của
Liên Ảnh Công ty là ông Lưu Trạch Hưng - nguyên Giám đốc Hãng phim Mỹ
Vân - người mà đạo diễn Lê Hoàng Hoa không bao giờ quên “câu nói vô cùng
dễ thương” của ông ấy: “Nhớ nghe Hoa, mỗi thước phim là một miếng bít
tết đó!”.
Nói thế vì có nhiều thước phim đã quay nhưng không đúng ý đạo diễn,
hoặc bị hỏng kỹ thuật phải bỏ đi làm lại, lắm lúc bỏ cả chục lần tốn kém
lắm, tiếc lắm, vì như ông Mỹ Vân ví von mỗi thước phim (trắng) nhập
khẩu ngang ngửa với giá của một đĩa thịt bò bít tết ở nhà hàng
Caravelle. Mà “vô số” miếng bít tết như vậy đã bị vứt vào sọt rác! Song,
muốn có những thước phim hay cũng đành chịu đánh đổi. Như cảnh Kim Vui
đóng vai Liên hát playback đã “phải quay đi quay lại đến take thứ 4 tôi
mới vừa ý”. Hoặc khi quay phân đoạn “tiền đồn” nằm trên ngọn đồi nhỏ
cách Nha Trang 17 km về phía bắc, Lê Hoàng Hoa nhìn vào cái viewer nhỏ
và “thấy như ở dưới (đồi) có một cái gì vương vướng”, hỏi ra biết là nhà
để xe, liền nói với ông Mỹ Vân “cần phải phá bỏ nhà để xe ấy vì nó lọt
vào khung hình chính của phân đoạn”. Ông Mỹ Vân đi tiếp xúc ban chỉ huy
khu vực, 15 phút sau trở về lắc đầu bảo nếu phá bỏ nhà để xe kia hãng
phim phải bồi thường 300.000 đồng. Số tiền ấy “đủ để mua một chiếc xe
hơi” nên ông Mỹ Vân muốn đạo diễn đặt máy chỗ khác. Lê Hoàng Hoa không
chịu, lẳng lặng bỏ về. Ra khỏi cổng một đoạn ngắn, ông Mỹ Vân bảo phụ tá
đạo diễn là Bùi Nhật Quang rượt theo nói: “Đang phá nhà để xe”. Nghĩa
là hãng phim đồng ý chi phí theo yêu cầu đạo diễn và lần đó không phải
“những miếng bít tết bị vứt vào sọt rác” mà là cả một chiếc xe hơi.
|
Vào giai đoạn thu hình cuối cùng có mặt Hùng Cường (vai Phi), Bảo Ân,
Hà Huyền Chi, Hoàng Cầm, tất cả phải làm việc “dưới cái nắng gay gắt
không một bóng cây (...) có những cảnh phải quay đi quay lại cả chục lần
vẫn chưa được”. Riêng một cảnh “quay từ 8 giờ tối đến 4 giờ sáng mới
lấy được một “good take” - đó là cảnh Phi ngồi sau hàng rào bao cát.
Tiền cảnh (foreground) là Phi, hậu cảnh (background) là vùng trời trước
mặt Phi với rặng núi xa xa. Hiệu quả mà tôi muốn là một trái hỏa châu từ
máy bay thả xuống rơi lơ lửng, tỏa ánh sáng lung linh trước mặt Phi”.
Phải nhờ đến 3 máy bay cất cánh từ sân bay Biên Hòa ra Nha Trang thả hỏa
châu lúc trời tối đến 10 giờ đêm nhưng vẫn không có trái nào “rơi đúng
trước mặt Phi” như đã viết trong bản phân cảnh kỹ thuật, nên cần chờ đợt
bay thứ hai thực hiện lại lần nữa lúc 1 giờ sáng. Thế là đoàn làm phim
phải đợi ngoài trời suốt 3 tiếng đồng hồ dưới sương đêm và giữa hai cây
spotlights 2.000 watts bật lên quét những luồng sáng trắng vào khung
hình đã định sẵn trên một ngọn đồi khuya khoắt gần Nha Trang...
Hình bóng Diệu Linh: “mỏng như một làn mây”
Trên chuyến bay từ Nha Trang về Sài Gòn “xen kẽ những ý nghĩ đan vào
nhau trong đầu tôi (Lê Hoàng Hoa) là hình ảnh của Diệu Linh - hình ảnh
nhẹ nhàng và mỏng như một làn mây. Không biết tôi bắt đầu thấy nhớ Linh
từ lúc nào. Có lẽ từ hôm ăn sáng ở quán Tre trong passage Eden”. Ấy là
buổi sáng sau đêm bấm máy phim Chân trời tím ở Continental, ông đã chở
Diệu Linh đến quán Tre nói trên. Họ gọi hai phần ăn sáng với món nem
chiên hột gà nổi danh ở quán đó, một tách cà phê đen cho ông và một ly
cam vắt cho cô bé. Song, cái ngon ngọt của lần gặp ấy có sức sống vượt
hẳn các món ăn trước mặt chính là những “câu hỏi không lời đáp” của họ:
- Em gọi ông là anh Hoa có được không?
- Tôi nhớ hình như cô nói cô 17 tuổi, vậy là tôi lớn hơn cô 19 tuổi, cô không thấy ngại khi gọi tôi bằng anh sao?
- Đây không phải là lần đầu một cô gái 17 tuổi (như em) gọi ông bằng anh phải không?
Phải. Có Hồng Hạnh 16 tuổi - một trong nhóm 7 nữ sinh học giỏi nhất
trường Trưng Vương yêu ông, đã gọi ông bằng “anh” trước đó rồi.
Lần thứ nhất ngồi với nhau, ông chở Diệu Linh về nhà của cô, tại một
biệt thự xinh xắn của dì ruột cô bé trên đường Công Lý (nay là Nam Kỳ
Khởi Nghĩa). Lần thứ hai, họ gặp ở nhà hàng Thiên Nam đầu đường Lê Công
Kiều, nơi có bán 6 món pizza rất ngon, cơm Rissotto, mì ống Alla
Amatriciana, Aiglio Olio, với bánh tráng miệng tuyệt vời “Torta con
frutti di bosco” - xong họ đến vũ trường Văn Cảnh cách đó không xa để
lần đầu dìu nhau qua tiếng hát Lệ Thu. Và lần thứ ba này, khi chiếc DC6
chạm đất chầm chậm chạy trên đường băng Tân Sơn Nhất “tim tôi nhảy loạn
lên không phải vì máy bay sốc mạnh mà vì tôi đang hồi hộp đợi chờ”:
Diệu Linh có đến không?
Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Kỳ 3: Yêu những mái tóc thề
Hoàn tất phần hình ảnh của phim Chân trời tím, tất cả phải gửi sang Nhật để in rửa ở Far East Laboratory (trước khi ráp nối, chuyển âm và hòa âm tại Sài Gòn) nên Lê Hoàng Hoa được rảnh ít nhất cũng nửa tháng, đủ thời gian để gõ cửa “một tình yêu”...
Cánh cửa hé mở cùng “điệu ru nước mắt”
Diệu Linh đã ra đón Lê Hoàng Hoa ở sân bay Tân Sơn Nhất với mái tóc dài óng ả dưới nắng: “Tôi
yêu những mái tóc dài ấy, có lẽ vì tôi lớn lên ở thành phố Huế, quen
nhìn và in sâu vào nỗi nhớ những mái tóc thề” (Bút ký). Lê Hoàng
Hoa sinh tại Nha Trang và sống với người cậu ruột ở đó cho đến 8 tuổi
rồi ra Huế ở với bà ngoại, vào học Trường Khải Định.
Là học sinh xuất sắc của trường, ông đã đậu kỳ thi tuyển sinh viên du
học do Phái bộ Mỹ tổ chức tại Việt Nam năm 1952 (lúc ông 19 tuổi). Cùng
đậu kỳ thi đó, có hai người nữa: Nguyễn Thức ở Sài Gòn và Hà Học Lập ở
Hà Nội. Cả ba người lên đường sang Mỹ cùng một ngày và ông thổ lộ Huế
vẫn luôn có một vị trí đặc biệt trong trái tim mình từ đó.
Giờ đây, ở phi trường Tân Sơn Nhất, trước mắt ông là mái tóc dài “rất Huế” của Diệu Linh với “khuôn
mặt trái xoan, đôi mắt to, sóng mũi dọc dừa, đầu mũi hơi vớt lên một
tí, đôi môi thì không biết phải tả như thế nào đây... phải công nhận là
cô bé đẹp, rất đẹp”. Giữa cô gái 17 tuổi này và ông vẫn chưa nói rõ
“một lời gì” thắm thiết, tuy vậy việc Linh ra đón ở sân bay chứng tỏ cô
đã có cảm tình với ông “ít nhất cũng hơn sự quen biết bình thường” như
ông viết. Linh mặc quần jeans nhung màu tím với áo sơ mi trắng bỏ lửng
bên ngoài, đang đứng cạnh một cô gái khác khoảng 27, 28 tuổi “cũng đẹp không kém, mặc bộ đầm màu mỡ gà”.
Linh giới thiệu: “Đây là dì em, Colette Ái Trinh”. Ông gật đầu chào, dì của Linh nói: “Cứ gọi em là Colette”. Rất nhanh, ông thầm nghĩ: “Cả hai dì cháu đều xưng em với mình thì làm sao mà gọi cô ta (Colette) bằng dì được đây”.
Đang nghĩ thế, Colette đã bước về phía chiếc Dauphine màu trắng mở cửa
xe ngồi sau tay lái, đưa ông về nhà riêng ở đường Trương Minh Giảng cũ
(nay là đường Lê Văn Sỹ), hẹn: “Chiều nay em mời anh Hoa đi ăn với tụi này nhé”.
Hai người đẹp - một Hoàng Hoa
Vừa đến nhà, hai ông Quốc Phong và Mỹ Vân điện thoại nhắn Lê Hoàng
Hoa đến gặp gấp tại biệt thự số 6 Ngô Thời Nhiệm. Biệt thự lớn 3 tầng,
tầng dưới làm văn phòng Liên Ảnh Công ty, một phòng dành riêng Lê Hoàng
Hoa, một phòng của ông Quốc Phong và phòng khác nữa của ông Mỹ Vân. Tầng
2 dùng làm phòng chuyển âm và tầng 3 dành cho gia đình ông Mỹ Vân. Vừa
ngồi xuống đã nghe ông Quốc Phong nói ngay: “Chúng ta sẽ làm tiếp phim thứ hai”, và đưa Lê Hoàng Hoa xem cuốn Điệu ru nước mắt của Duyên Anh: “Trong
thời gian đợi phim in rửa từ Nhật về, cậu viết phân cảnh kỹ thuật, việc
chuyển âm và hòa âm tụi này sẽ chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng, để khi hoàn
tất Chân trời tím là bắt tay vào việc thực hiện phim Điệu ru nước mắt
ngay”.
Rồi ông Mỹ Vân hỏi Lê Hoàng Hoa cần lên Đà Lạt để viết phân cảnh không. Ông muốn ở lại Sài Gòn vì có Diệu Linh, nên bảo: “À không, lần này tôi viết ở đây (Sài Gòn) cũng được”. “Mắt ông Mỹ Vân sáng lên”
bởi hãng phim sẽ đỡ khoản chi tiền vé máy bay khứ hồi và ăn ở khách sạn
Palace trong nửa tháng. Lại bàn sang chuyện chuyển âm và hòa âm cho Chân trời tím
mãi đến 4 giờ 15 chiều chưa xong. Còn 15 phút nữa đến giờ Colette hẹn
gặp. Ông xin lỗi rời chỗ họp, ra phòng ngoài nhấc điện thoại báo Colette
và Diệu Linh biết không đi ăn ở quán Con Nai Vàng được. Colette có vẻ
thất vọng, hỏi: “Họp lâu không anh?” - ông đáp chắc phải đến 8 giờ tối. Tiếng Colette hẹn lại: “Vậy mình đi nhảy đi, OK?”, ông đồng ý.
Vào 8 giờ 30 tối, Colette và Diệu Linh đón ông đến vũ trường, ông và
Diệu Linh lại trong vòng tay nhau qua tiếng hát Nhật Trường: “Anh về với em, như chim liền cánh, như cây liền cành… Như đò với sông, như nước xuôi dòng vào lòng biển xanh”. Đến đoạn cuối của ca khúc, mắt ông “chỉ
còn nhìn thấy mỗi khuôn mặt dễ thương đầy quyến rũ của Linh dưới ánh
đèn màu mờ nhạt, tôi đi những bước dài và cố tình di chuyển khỏi tầm
nhìn của dì Colette đang ngồi một mình, rồi nhẹ nhàng kéo sát Linh vào
người tôi và Linh đã để yên...”.
Ông nói nhẹ như hơi thở - để chỉ “mình Linh nghe thôi” rằng, ông muốn “sẽ được ôm em suốt đêm”. Cô bé nhìn vào mắt ông: “Anh nói thật không?”. Ông đáp: “Thật đó”. Lúc ấy khúc vũ nhạc cũng vừa dứt điệu boléro, chuyển dần sang bài khác theo điệu chachacha, Linh dừng bảo: “Nhảy với dì Colette đi anh, dì nhảy chachacha đẹp lắm”. Vậy là đêm ấy ông đã “khiêu vũ với hai người đẹp bằng hai tâm trạng khác nhau và không bao giờ nghĩ rằng đó là mở đầu của một kết thúc thật buồn”...
Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Đàn em Đại Cathay bám trường quay
Biết phim Điệu ru nước mắt sắp bấm máy, đàn em của Đại ca Thay (Đại Cathay) - nhân vật cốt tủy trong tiểu thuyết cùng tên của Duyên Anh cũng là tay anh chị có thật trong giới giang hồ Sài Gòn - đã tìm đến gặp đạo diễn Lê Hoàng Hoa.
Lúc đó, ông đang trải qua những ngày không vui vì Diệu Linh bị gia
đình buộc phải rời Sài Gòn về ở luôn trên Đà Lạt, “hơn một tháng đã trôi
qua trong yên lặng hoàn toàn, không một tin tức gì về Linh dù là rất
nhỏ... tôi tự nhủ hãy quên đi”. Để quên “giấc mơ hoa” ấy, ông dồn tâm
sức viết bản phân cảnh kỹ thuật phim Điệu ru nước mắt và định
quay cảnh đầu tiên vào sáng hôm sau, thì buổi trưa hôm đó một thanh niên
khoảng 27 - 28 tuổi không hẹn bước vào, tự giới thiệu: “Em là Hùng đầu
bò!”.
Bất ngờ trước giờ bấm máy
Nghe xưng danh, ông không ngạc nhiên lắm vì đã thuộc làu những cái
tên như Đại ca Thay, Hùng đầu bò, Bốn lơ xe, Năm Hòa Hưng, Bốn bù loong,
chỉ băn khoăn không hiểu Hùng đầu bò đến gặp có việc gì, thì anh ta đã
nói ra: “Tụi em muốn mời anh đi ăn cơm để cho anh biết một vài điều về
“đại ca” (Đại Cathay) để anh làm phim cho đúng”. Dứt lời, Hùng nhìn ra
cửa và lập tức từ bên ngoài ập vào “sáu tên mặt mày dữ tợn dàn hàng
ngang sau lưng gã”. Ông nghĩ thầm “chết rồi, chắc là băng du đãng muốn
kiếm chuyện gì đây”. Cô thư ký của ông mặt tái xanh định điện thoại kêu
cảnh sát, nhưng ông ngăn lại, bình tĩnh bảo Hùng là mình phải đi họp ở
hãng phim gấp bây giờ.
“Tụi em sẽ đi theo anh, khi nào anh họp xong mình đi ăn” - Hùng đầu
bò nói như vậy, rồi lên chiếc mô tô cùng 6 đàn em (chở nhau trên 3 chiếc
Vespa) bám theo Lê Hoàng Hoa đến Liên Ảnh Công ty ở đường Ngô Thời
Nhiệm. Ông vào bàn việc với ông Mỹ Vân xong, quay ra lấy xe chạy thẳng
đến nhà hàng Thanh Thế. Vừa ngồi xuống đã thấy Hùng đầu bò tiến thẳng
đến chỗ ông, sáu tay du đãng đàn em ngồi ở một góc khác. Hùng cho biết
gia đình mình sinh sống ở Đà Nẵng, cha làm nha sĩ, mẹ dược sĩ, nhưng
Hùng chán đời bỏ đi bụi, một lần bị cảnh sát bắt đánh gãy hai răng cửa
Hùng để vậy luôn làm kỷ niệm, không muốn trồng răng giả vào. Suốt bữa
ăn, Hùng kể về Trần Đại (tức Đại ca Thay) với “những chi tiết mà trong
tiểu thuyết của Duyên Anh không có”...
Giải cứu đạo diễn
Sáng hôm sau, Lê Hoàng Hoa đến Liên Ảnh Công ty thấy các ê kíp quay
phim, ánh sáng, hóa trang cùng các diễn viên Trần Quang, Hùng Cường,
Thiên Trang, Tâm Phan, Cẩm Hồng, Ngọc Phu, Trần Hoàng Ngữ, Minh Long và
cố vấn võ thuật là võ sư Quỳnh Kỳ đã có mặt. Ông Mỹ Vân đứng khấn vái
trước cái bàn tròn có đặt sẵn “con heo quay và đủ các thứ đồ ăn bánh
trái”, đốt 3 cây hương bảo: “Đạo diễn cúng đi, anh em cúng hết rồi”. Ông
nhìn qua bên kia đường Ngô Thời Nhiệm, thấy Hùng với đám đàn em ngồi ở
quán cà phê đối diện nhìn sang. Đoàn phim đến địa điểm chọn sẵn ở một
rừng sồi trên xa lộ Biên Hòa để quay cảnh thanh toán nhau giữa Đại ca
Thay và Bốn lơ xe vốn là “trận then chốt của Điệu ru nước mắt, phải cắt
plan thật nhiều và phải dùng kỹ xảo khi thu hình”. Đóng hai vai đó là
Hùng Cường và Ngọc Phu đã “quần nhau” theo những thế võ được Quỳnh Kỳ
chỉ dẫn tỉ mỉ giúp ông “ghi nhớ trong đầu những đoạn cần phải lấy cận
ảnh (CU: close up)”. Trong đám đông dân chúng kéo lại xem, ông thấy Hùng
đầu bò với đàn em cũng có mặt ngay từ lúc “ê kíp ánh sáng của Trương Sĩ
Liên vừa đặt các tấm phản quang (reflector) lên chân và ê kíp quay phim
của Châu Tùng ráp các đường ray thành vòng cung theo ý đồ đạo diễn”...
Khi đạo diễn phải đợi !
1. Đợi chờ là việc rất thường xảy ra với các đoàn làm
phim, đợi mưa, đợi nắng, đợi mây mù, đợi chiều tà, đợi mặt trời mọc, đợi
hiệu quả đặc biệt (special effect), đợi diễn viên, đợi đủ thứ trên
đời...
2. Đợi phương tiện: Tôi đi thẳng vào phòng làm việc của
ông Mỹ Vân và ông cho tôi xem một ống kính Scope Zoom 180 mới toanh còn
trong bao giấy dầu. Tôi vui không thể tưởng được vì suốt cả thời gian 46
ngày quay phim Chân trời tím chúng tôi chỉ có một ống kính Ultrascope
50 dùng cho tất cả các cảnh. Ông Mỹ Vân đã qua Hồng Kông mua ống kính
này và tôi là người đầu tiên sử dụng nó cho phim Điệu ru nước mắt.3. Đợi người yêu: Không chịu nổi sự cô đơn đợi chờ, tôi mượn Paulette cái cassette nhỏ. Không biết bao nhiêu cuộn cassette, không biết bao nhiêu bản nhạc đã đi qua trong cái không gian tĩnh mịch cô đơn đó. Tôi lịm người trên chiếc ghế dựa cho đến khi có tiếng gõ nhẹ bên ngoài. Linh đã đến...
Lê Hoàng Hoa
|
Cứ thế Hùng đi theo đoàn phim mãi, hết nơi này đến nơi khác, nhưng
bao giờ cũng giữ một khoảng cách, không lộ liễu. Một hôm, đoàn phim ăn
trưa ở quán Con Nai Vàng, Thủ Đức, nửa bữa một người đàn ông lạ mặt bỗng
cầm ly bia 33 bước đến trước mặt Trần Quang và Hùng Cường mời, cả hai
anh vui vẻ uống cạn. Người ấy lại tiến về phía Lê Hoàng Hoa mời trăm
phần trăm, ông nói thật là mình không biết uống bia rượu, song gã kia
vẫn lớn tiếng: “Không biết cũng phải uống”. Cả đoàn ái ngại im lặng,
chợt một thanh niên lực lưỡng ở đâu bước tới với bộ dạng dữ tợn “kẹp cổ
và bẻ quặt cánh tay đang cầm ly bia của gã kia ra đằng sau” rồi hét vào
tai gã: “Ông đạo diễn nói không uống là không uống. Có biết tiếng Việt
không?”, gã lắp bắp: “Dạ biết, dạ biết”. “Còn một lần hỗn láo với ông
đạo diễn là tao cắt tai mày đó” và một cái đạp khiến gã chúi nhũi, chạy
khỏi quán. Ông biết đàn em Hùng đầu bò đã ra tay nhưng Hùng vẫn ngồi yên
như không can dự gì. Sau việc ấy, ông tự nhủ “nổi tiếng không phải lúc
nào cũng đem lại hạnh phúc và vui vẻ... mà thường đi đôi với ganh tỵ,
còn sự ái mộ của quần chúng có lúc mang lại vui sướng nhưng cũng lắm lúc
đem đến phiền muộn mà chỉ những người trong cuộc mới cảm nhận được”...
Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Kỳ 5: Hòa âm
Để bạn đọc biết thêm về giai đoạn cuối nhằm hoàn tất một cuốn phim trong những điều kiện kỹ thuật ở gần nửa thế kỷ trước tại Sài Gòn, chúng tôi trích giới thiệu dưới đây những mô tả thực tế mà đạo diễn Lê Hoàng Hoa đã trải nghiệm…
Một lần nữa chúng ta hãy trở về với phim Chân trời tím sau ngày toàn
bộ hình ảnh của cuốn phim in rửa ở Far East Laboratory bên Nhật Bản gửi
về. Công đoạn tiếp theo gồm ráp nối, chuyển âm và hòa âm sẽ đem đến thực
hiện tại Trung tâm Điện ảnh - nơi “đầy đủ dụng cụ máy móc đúng tiêu
chuẩn kỹ thuật” để hoàn chỉnh âm thanh với một dàn gồm “7 chiếc máy chạy
phim từ tính (magnetic film) 16 ly và 3 máy khác 35 ly to như những dàn
tủ đứng”. Cả hai loại máy trên được vận hành đồng bộ (interlock) trong
lúc hòa âm và đều được đặt ở phòng thứ nhất. Phòng thứ hai của trung tâm
cách phòng trên hai bậc thềm với cửa cách âm (soundproof) để sẵn 45 ghế
nệm bọc simili màu đỏ thắm trước một màn ảnh rộng. Bước vào đó khá sớm
là hai chuyên viên chính phụ trách âm thanh là Hạ và Kính cùng các
chuyên viên cộng sự tăng cường cho giai đoạn hòa âm gồm Ẩn, Nghĩa, Dũng
và hai cô chuyên viên “xinh như mộng”: Lệ Trinh và Mỹ Trang. Hai ông
Quốc Phong và Mỹ Vân đến sau với nét mặt rạng rỡ, vì hôm nay là ngày đầu
của giai đoạn cuối cùng trong việc thực hiện một cuốn phim: giai đoạn
hòa âm (mix).
“Các chuyên viên lắp hai cuốn phim từ tính 35 ly cho nhạc A và B, một
cuốn phim từ tính 35 ly cho đối thoại, 2 cuốn phim từ 16 ly cho tiếng
động chuyển âm, và 4 cuốn phim từ 16 ly cho tiếng động hiệu quả
(effect)”. Tôi đưa mắt cho Hạ: “Chạy thử đi”. Hạ gật đầu bấm nút
talk-phone liên lạc với các phòng: “Phòng chiếu xong chưa?”, “Phòng
chiếu xong” tiếng của kỹ sư Trần Minh Lực vang lên: “Ampex xong chưa?”
“Ampex xong”. Tiếp đó:
- Tiếng động A xong.
- Tiếng động B xong.
- Effect 1, 2, 3, 4 xong.
Tôi ngồi xuống sau chiếc bàn dài đầy máy móc, cạnh tôi là Hạ, Kính và
người đẹp Lệ Trinh: “Phòng chiếu cho than củi đi” (anh em phòng âm
thanh vẫn gọi đùa mỗi khi ra hiệu cho phòng chiếu bật đèn than của máy
chiếu phim). Một luồng sáng trắng từ ống kính máy chiếu trên lầu rọi
thẳng tràn đầy màn ảnh cinemascope. Kính bật một cái nút nhỏ, dưới màn
hình scope hộp đèn của đồng hồ đo độ dài phim (footage counter) bật sáng
lên, những con số chạy nhanh rồi trở về số không. Hạ bật nút interlock,
tất cả các máy được cài lại với nhau để chạy cùng một lúc. Hạ ấn nút
cuối cùng. Tất cả các máy, kể cả máy chiếu phim trên lầu bắt đầu chạy
cùng lúc và cùng một tốc độ là 24 hình trong 1 giây. Trên màn ảnh xuất
hiện chữ start mark, rồi các con số 9-8-7… đến số 3 một tiếng “bíp” vang
lên, rồi lại một tiếng “bíp” khác nhỏ hơn. Hạ vội vàng tắt máy. Màn
hình vụt tối đen, đèn trong thính đường A sáng lên”.
Lúc ấy ông Quốc Phong sốt ruột quay lại hỏi Lê Hoàng Hoa: “Sao vậy
Hoa, chuyện gì vậy?”. Ông trả lời: “Có một máy chạy lệch, không sao cả”.
Thỉnh thoảng máy chạy lệch như thế là thường nên các chuyên viên và
cộng sự của họ trong phòng âm thanh và phòng chiếu đều rất bình tĩnh. Họ
gỡ tất cả 9 cuốn phim từ tính và cuốn phim hình ảnh ra lắp lại đúng
start mark (dấu khởi đầu). Giọng Hạ lại vang lên: “Phòng chiếu xong
chưa, xong rồi thì cho than củi nhé”. Một lần nữa màn ảnh rộng được
chiếu sáng bằng đèn than của máy chiếu, đèn trong phòng mờ dần rồi tắt
hẳn. Chữ start mark và những con số lại hiện ra, tiếng “bíp” vang lên
ngay con số 3 rồi im lặng: “Trên màn hình là vùng đồi núi chập chùng với
những đám khói màu tím xám bay qua…” mãi đến hình ảnh cuối cùng của
cuốn phim và đèn bật sáng. Ông Quốc Phong cười hỏi: “Xong rồi hả Hoa?”.
Lê Hoàng Hoa lắc đầu: “Đâu có dễ như vậy, vừa rồi chỉ là chạy thử, còn
phải chạy như vậy vài lần nữa cho nhuyễn rồi mới mix thật được”. Kế đó,
tiếp tục chạy thử thêm 3 lần nữa và một lần rưỡi mix thật, thì “roll 1
của Chân trời tím mới hoàn thành lúc 12 giờ 10 hôm ấy” và khi đèn bật
sáng, mọi người mới biết ông Quốc Phong đã ra về từ lúc nào. Lê Hoàng
Hoa tính nhẩm: “Hôm nay là thứ ba, đã hòa âm được 2 cuốn, nếu máy móc
không trục trặc thì đến trưa thứ bảy là hòa âm xong cả 9 cuốn và chủ
nhật tôi có thể bay lên Đà Lạt tìm gặp Diệu Linh. Hy vọng là như vậy và
nếu không tôi cũng cứ đi. Thật may, không có một trục trặc nào xảy ra
trong những ngày kế tiếp, 9 cuốn phim Chân trời tím đã được hòa âm xong
vào trưa thứ bảy và tối thứ bảy, một tối mà tất cả những người bắt tay
vào làm phim mong đợi từ lâu nay đã đến: xem toàn bộ phim Chân trời tím
với đầy đủ âm thanh, đối thoại, nhạc và tiếng động”.
Phim được người xem đón nhận vượt dự kiến, Lê Hoàng Hoa được nhiều
hãng phim khác mời làm đạo diễn. Song lúc ấy ông vẫn còn phải tiếp tục
thực hiện thêm một phim nữa (Điệu ru nước mắt) cho Liên Ảnh Công ty. Tuy
vậy, “một cameraman thuộc loại cừ khôi của Trung tâm Điện ảnh” bấy giờ
đang là đạo diễn của Đài truyền hình THVN9 và là bạn học với ông từ hồi
hai người còn học tiểu học ở Trường Saint Pierre là Nguyễn Văn Để (Diên
An) đến tìm ông, nói: “Túy Hồng muốn mời toa làm đạo diễn cho Sống
Film”. Con đường nghệ thuật của ông tiếp tục thuận lợi nhiều hơn sau
buổi tiếp tân của Sống Film mở tại khách sạn Caravelle để chính thức
giới thiệu Lê Hoàng Hoa là đạo diễn phim Gác chuông nhà thờ sắp quay của
họ…
Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Kỳ 6: Những pha “đứng tim” trên gác chuông nhà thờ
Đoàn làm phim Gác chuông nhà thờ do hãng Sống Film sản xuất và Lê Hoàng Hoa đạo diễn, phải thực hiện những thước phim khó khăn, nguy hiểm trên độ cao chót vót của nhà thờ Đức Bà Sài Gòn để hoàn chỉnh 28 trong tổng số 55 phân đoạn của tác phẩm điện ảnh này.
Theo truyện phim, gác chuông nhà thờ Đức Bà là nơi bọn cướp bắt cóc
Diễm (Túy Hồng đóng) đem nhốt để đòi tiền chuộc. Gác chuông là “một bối cảnh chưa từng có trong phim ảnh Việt Nam nên tôi nhất quyết đưa bối cảnh đẹp và kỳ lạ này đến với những người yêu phim”
- Lê Hoàng Hoa viết. Ông cùng nhà quay phim Nguyễn Văn Để đến gặp đức
cha cai quản nhà thờ, xin phép mở cánh cửa dày cộm để lộ ra hệ thống bậc
thang dựng đứng dẫn lên đỉnh tháp và không thể tưởng tượng được quả
chuông lại to tới mức “5 người như tôi len vào bên trong vẫn còn
rộng... quả lắc ở giữa dùng để đánh chuông to hơn cả người tôi, chung
quanh là 4 hành lang hẹp chỉ vừa hai người đi”. Từ hành lang ấy nhìn xuống mặt đường thấy “như một cái hố sâu thăm thẳm không đáy... với những chiếc xe hơi đang lưu thông trông giống như những món đồ chơi”.
Phải can đảm để diễn xuất
Hằng ngày, một số diễn viên bắt buộc phải trèo lên gác chuông như Túy
Hồng, Huy Cường, La Thoại Tân, Mai Lệ Huyền và Bảo Ân (vai những tên
bắt cóc tống tiền), ông Năm Châu (vai đức cha cai quản nhà thờ), Đoàn
Châu Mậu (vai thanh tra cảnh sát) và dĩ nhiên - luôn có mặt đạo diễn,
quay phim, cùng các chuyên viên kỹ thuật, ánh sáng.
Một người cầm bộ đàm đứng dưới đường mở máy liên tục để nối liên lạc
thường trực với đạo diễn trên gác chuông - nhất là phải thông báo ngay
cho đoàn phim biết trước khi người phụ trách gióng chuông của nhà thờ
bấm vào nút điện đổ chuông ba lần mỗi ngày (vào 5 giờ sáng, 12 giờ trưa
và 5 giờ chiều) để mọi người trong đoàn “bịt hai tai lại và há miệng ra nếu không tai sẽ bị chảy máu vì đứng quá gần quả chuông khổng lồ”. Lo nhất là Năm Châu vì “tuổi tác của ông đã cao... thêm vào đó là lũ dơi bay ào ra mỗi khi có người lên cầu thang”.
Có lần ông Năm Châu báo trước sẽ đến trễ, 11 giờ 30 thu cận cảnh xong
vẫn chưa thấy ông nên tạm nghỉ ăn trưa. Đang ăn, máy bộ đàm dưới đất hỏi
“chú Năm Châu đã lên tới trển chưa?”, cả đoàn giật mình trả lời chưa. “Chết rồi, chỉ còn 4 phút nữa là người ta bấm chuông đó”.
Đang lúng túng, chuông nhà thờ đã vang lên, mọi người nín thở nhìn
xuống, hồi hộp, thấy Minh - một thanh niên to khỏe - đang dìu ông Năm
Châu “ở chiếc cầu thang thứ 4 tính từ gác chuông xuống” lên, ai nấy thở phào.
Tới cảnh Bảo Ân phóng dao “vẽ thành một đường sáng chói vụt qua máy rất tuyệt”,
chợt ai nấy đứng lặng người, vì con dao to bản vụt qua cửa sổ, rơi
xuống đường đông người qua lại, may quá, không trúng ai hết: “Tất cả lại thở phào, hãy tưởng tượng nếu trúng vào ai đó thì chắc thân thể sẽ bị chẻ làm đôi”.
Chuyện khác: chỉ một cảnh lấy cận lúc quả chuông đang lắc qua lắc lại
và sẽ lên phim có 6 giây đồng hồ mà phải thiết kế cái dàn gỗ để bắt
camera vào, đặt dưới quả chuông, xong thòng một sợi dây điện nối từ
camera ấy xuống tận dưới đất dài thật là dài... Rồi khi quay đoạn phim
cuối ở nhà thờ, hãng Sống Film phải nhờ các đội cảnh sát phong tỏa những
con đường dẫn đến nhà thờ Đức Bà và thuê thêm các cây đèn 10.000 watts
cho các chuyên viên kỹ thuật bố trí ánh sáng suốt từ sớm đến 3 giờ chiều
mới xong để thu hình Huy Cường (trùm bắt cóc tống tiền) rơi từ tháp
chuông chót vót xuống đất với chiếc cặp văng ra tung tóe những tờ giấy
bạc mới toanh. Cảnh quay kết thúc an toàn và như ý: Good take! - ông hô
lớn như vậy và bắt tay cám ơn tất cả.
“Thành phố mộng mơ”
Diệu Linh bị gọi về Đà Lạt, Colette Ái Trinh (dì ruột Linh) ở Sài Gòn
mời Lê Hoàng Hoa đi ăn tối. Đến bên hông khách sạn Majestic, Colette
tắt máy chiếc Dauphine mở cửa bước xuống, rồi “rất tự nhiên khoác tay tôi vào trong Cyclo bar tự chọn một chiếc xích lô (bàn ăn đóng theo kiểu xe xích lô) kéo tôi ngồi xuống”.
Cung cách quá thân mật của Colette làm ông nhớ lại có lần Linh đã nói: “Em có cảm giác như dì ấy (Colette) yêu anh”. Colette “trách nhẹ” vì Lê Hoàng Hoa nên Linh mới bị “má nó đánh một trận tơi bời”
buộc phải rời Sài Gòn. Một bữa cô bạn thân của Linh là Ngọc Mai từ Đà
Lạt xuống đưa bức thư của Linh viết rằng má Linh sẽ xuống Sài Gòn ngày
chủ nhật tuần ấy và “nếu còn nhớ đến em thì anh lên Đà Lạt với em trong ngày thứ hai tới”.
Ông lên Đà Lạt ngay, đợi Diệu Linh trong một biệt thự xây theo kiểu kiến trúc mỹ thuật Thụy Sĩ dùng làm một “auberge không tên”
do một bà dì vốn là người trong hoàng tộc rất thân thiết với gia đình
Lê Hoàng Hoa từ ngày còn ở Huế lên đó mở ra. Diệu Linh đến gặp ông, ấm
áp và ngỡ ngàng như một cơn gió đầu mùa và ông đã “kéo Linh vào vòng tay, ôm thật chặt như thể sợ Linh tan biến đi”.
Họ bên nhau trong tiếng hát truyền cảm của Jim Reeves tràn ngập cả
phòng qua bản He’ll have to go phát ra từ chiếc cassette đặt bên bình
hoa ngọc điểm tím nho nhỏ trên table de nuit...
Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Kỳ 7: Đạo diễn đào hoa
Lòng đam mê nghệ thuật thứ bảy và tình yêu phái đẹp của Lê Hoàng Hoa đã quyện vào nhau thành chân dung của một đạo diễn đào hoa.
Eugénine Mộng Hảo với “người tình”
Chính ông cũng nhắc khá nhiều tên người đẹp với các câu chuyện lãng
mạn qua bút ký Những tháng ngày làm phim. Hãy điểm lại, bắt đầu bấm máy
Chân trời tím có Diệu Linh đến. Ký hợp đồng Vết thù trên lưng ngựa hoang
chưa ráo mực đã gặp ca sĩ Phương Hồng Loan (sau này là vợ ông).
Khoảng giữa của hai phim đó là Gác chuông nhà thờ có Eugénine Mộng
Hảo đột ngột xuất hiện tại nhà hàng Caravelle trong buổi tiếp tân của
hãng Sống Film, có mặt đầy đủ các diễn viên nổi danh như Năm Châu, Kiều
Hạnh, Túy Hồng, Văn Dzai, Đoàn Châu Mậu, Huy Cường, La Thoại Tân, Bảo
Ân, Tường Vi, Mai Lệ Huyền, Thanh Mai, với nhiều khách mời trang trọng
như Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Kim Vui, Ánh Nga, các ca sĩ Thanh Thúy và
Lệ Thu, nghệ sĩ Thanh Hoài, cùng đông đảo quan chức ngành thông tin và
báo giới đương thời.
Mọi người vừa vào tiệc, “Eugénine Mộng Hảo đã mặc áo đầm dạ hội bằng
nhung màu đen viền kim tuyến vàng nổi bật dưới ánh thủy tinh của những
chùm đèn Swarowski treo trên trần” từ ngoài bước vào và đi nhanh về phía
ông, nắm lấy tay ông xin lỗi đã đến trễ. Tất cả quay nhìn về phía ông,
“thật ra là mọi cặp mắt đó đang nhìn cô gái đứng bên cạnh tôi thì đúng
hơn” (Bút ký). Nhà báo Huy Vân cười hỏi: “Diễn viên mới của phim Gác
chuông nhà thờ phải không? Toa cho anh em biết đi chứ, hay cũng muốn giữ
bí mật như chuyện phim?”. Ông giới thiệu: “Đây là Eugénine Mộng Hảo, em
gái tôi”. Huy Vân hỏi: “Toa có em gái từ hồi nào vậy?” - cả phòng tiệc
cười ồ lên. Rồi cánh phóng viên đưa máy ảnh vây đến, ông phải năn nỉ hết
lời họ mới tha không chụp cảnh ông và Eugénine đứng cạnh nhau.
Thật ra ông quen hai anh em Eugénine hồi ở Mỹ mới về, lúc Eugénine
mới 5 tuổi, nay cô đã 18 tuổi rồi. Anh của Eugénine là Nhiên vẫn thường
đi chơi với ông luôn. Trước đó khoảng nửa tháng, ông đã nhờ Nhiên cho
phép Eugénine đóng vai “người yêu” của mình trước mặt Colette Ái Trinh,
dì của Linh, để Colette thấy mà “tránh xa” ông. Nhiên đồng ý và họ cùng
đến vũ trường Tour d’Ivoir theo lời hẹn của Colette. Tới đó, Nhiên đón
Colette vào trước. Ông và Eugénine vào sau, dìu nhau lên sàn nhảy “tôi
ôm Eugénine thật chặt, má tôi và má Eugénine sát vào nhau” trong điệu
slow, tiếp đó là rumba. Colette đứng dậy đi nhanh ra cửa, không nói một
tiếng nào. Sau “màn kịch” đó, Eugénine đòi ông chở đến vũ trường Moulin
Rouge. Một bữa khác lại đòi chở về nhà ông “căn phòng của tôi không lạ
gì đối với Eugénine vì đã bao năm nay nàng vẫn đến phòng tôi chơi nghe
nhạc như Nhiên anh của nàng nhưng lần này... có một cái gì đó làm tôi
không yên tâm cho lắm”. Ông lấy cuốn băng ShotGun của Ngọc Chánh vừa gửi
tặng bỏ vào dàn Akai M7, rồi bật máy nghe tiếng hát Phương Dung qua bản
Sắc hoa màu nhớ: “Hoa phượng rơi đón mùa thu tới - Màu lưu luyến nhớ
quá thu ơi - Ngàn phượng rơi bay vương tóc tôi - Xác tươi màu pháo vui,
tiễn em chiều năm ấy...”. Lúc ông vào trong pha hai ly coca, Eugénine ở
ngoài phòng lấy bộ pyjama của ông mặc vào trông “vừa buồn cười vừa thật
dễ thương - Eugénine đỡ lấy hai ly coca tôi đang cầm để xuống chiếc bàn
vuông nhỏ cạnh ghế sofa, rồi vòng hai tay lên cổ tôi, nói: Nhảy với em
đi”. Đột nhiên có tiếng cửa mở, ông và Eugénine nhìn ra. “Đứng ở cửa là
Diệu Linh!”. Diệu Linh đột ngột từ Đà Lạt xuống lúc nào không báo trước,
trong cảnh đó ông không thể thanh minh được, Linh khóc rồi “ra đi -
cũng như Eugénine - không một lời từ biệt”. Sau này, Eugénine qua Pháp
du học, còn “Diệu Linh của thành phố đầy sương mù thì hoàn toàn biệt tăm
không có tin tức gì...”.
Phương Hồng Loan với “vết thù...”
Liên Ảnh Công ty mời ông thực hiện phim Vết thù trên lưng ngựa hoang
và đồng ý để ông làm việc theo ê kíp của ông gồm: “giám đốc hình ảnh
(director of photoragraphy) Nguyễn Văn Để, phụ tá đạo diễn (assistant
director) Bùi Nhật Quang - vì tôi quan niệm làm phim phải là travail
d’équipe (team work) mới được”. Ông đến Đài THVN tìm cameraman Nguyễn
Văn Để báo tin đã ký hợp đồng phim ấy, bất ngờ gặp “một cô ca sĩ còn
trẻ, rất trẻ, rất đẹp với đôi mắt thật to, suối tóc dài buông xõa qua bờ
vai trong chiếc áo dài raclan hở cổ màu hoa cà đang hát trước chiếc
camera to cồng kềnh mà cameraman Lê Thiện Minh đang dolly in chầm
chậm...”. Ông bần thần bởi giọng ca ngọt ngào nhắc nhớ Đà Lạt với Linh:
“Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi - nghe hơi gió len
vào hồn người chiều xuân mây êm trôi...” và bởi vẻ đẹp thùy mị ngây thơ
của cô bé. Hỏi ra biết ca sĩ trẻ ấy là Phương Hồng Loan 17 tuổi - mà
trước đó 4 năm là học trò của nhạc sĩ Nguyễn Đức đã được đưa đến gặp ông
để đóng vai khán thính giả trong cảnh phòng trà ca nhạc của phim 11 giờ
30 do ông đạo diễn. Đợi Loan từ phòng thu hình bước ra, ông chở Loan về
nhà cô ở đường Cao Thắng, xin phép mẹ Loan đưa cô đi ăn trưa ở tiệm
Ngân Đình ngoài bờ sông Sài Gòn. Ngồi một lúc, Loan nhắc lại hôm mình
đóng vai khán thính giả 13 tuổi trong phim 11 giờ 30 rằng: “Trước lúc
quay, Jo Marcel hát bản Mộng dưới hoa, anh đã bế Loan lên, đặt ngồi trên
cây đàn piano rồi xoa đầu Loan nói: Cháu xinh quá, lớn lên chú sẽ cưới
cháu làm vợ”. Chẳng ngờ câu nói ấy thành sự thật, vì không lâu sau Lê
Hoàng Hoa làm lễ cưới ca sĩ Phương Hồng Loan tại khách sạn Caravelle,
vào đêm 10.11.1970. “Không khí của đêm đó thật là vui nhộn và thân mật.
Một ca sĩ đã lên micro hát bản Năm anh hai mươi, em mới sinh ra đời của
nhạc sĩ Y Vân để tặng cô dâu và chú rể, mà đúng như vậy, Phương Hồng
Loan thua tôi đến hai mươi tuổi”...
Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Kỳ 8: Hai điều “đầu tiên” ấn tượng
Lần đầu tiên đạo diễn cảnh “đạn bắn trúng vào người”
Khi quay Vết thù trên lưng ngựa hoang, đoàn phim ra Vũng Tàu
để thực hiện phân cảnh kỹ thuật đoạn Hoàng Guitar (Trần Quang đóng) bị
trùm buôn lậu (Xuân Phát đóng) đứng trên triền núi bắn xuống hết cả băng
đạn M16. Hoàng Guitar gục chết trong tư thế với tay ra chạm tới chiếc
chìa khóa của căn phòng mà vợ Hoàng (Thanh Nga đóng) đang nằm ngủ bên
trong.
Ông viết trong bút ký: “Vào thời điểm đó (đầu năm 1971) chưa phim
Việt Nam nào có cảnh đạn bắn trúng vào người, nên tôi muốn cho báo chí
xem kỹ thuật và xảo thuật của những người làm phim Việt Nam trong hoàn
cảnh thiếu thốn trầm trọng kỹ thuật và máy móc dụng cụ”. Ông kể:
- Tôi phải dùng một tấm kẽm mỏng có cài sẵn 7 kíp nổ rồi áp sát vào
phía sau lưng của Trần Quang nịt chặt lại. Kíp nổ nối với 7 sợi dây điện
luồn phía trong quần, chạy xuống tới dưới chân của Trần Quang, người
ngoài nhìn vào sẽ không thấy tấm kẽm lẫn các sợi dây điện vì đã được che
lại khéo léo bằng một chiếc áo khoác rộng phủ bên ngoài. Tôi lại dùng 7
sợi dây điện khác thật dài để nối từ camera tới 7 sợi dây điện nằm dưới
chân Quang, tất cả đều được phủ lên một lớp cát mỏng...
Ra trường quay, sau tràng tiểu liên nổ giòn giã, Hoàng Guitar gục
xuống với “những viên đạn cày xới trên lưng cùng khói bụi”. Những người
mục kích cảnh quay phim đó, gồm cả các nhà báo, đã vỗ tay: “Hay quá! Hay
quá!”. Tổng giám đốc Liên Ảnh Công ty là ông Quốc Phong đến bắt tay Lê
Hoàng Hoa, song mắt vẫn nhìn về phía Trần Quang lo lắng vì lúc ấy anh
vẫn đang nằm im trên bãi cát. Một người sốt ruột hỏi: “Anh Quang có sao
không?” và được trấn an ngay khi nghe Trần Quang nói to “không sao hết”.
Quang nằm như thế vì trước đó đạo diễn dặn đi dặn lại: “không được đứng
lên nếu chưa gỡ dây điện ra”. Lê Hoàng Hoa ghi nhận Trần Quang lúc bấy
giờ nổi danh trong vai James Dean Hùng (tức Hùng đầu bò đã theo dõi sát
sao đoàn phim) trong Điệu ru nước mắt song anh vẫn khiêm tốn và cùng với
Thanh Nga là “hai diễn viên làm việc rất nghiêm túc, luôn đến đúng giờ,
đọc bản phân cảnh trước và thuộc làu đối thoại”. Hôm quay cảnh Trần
Quang cùng tướng cướp áo đen (Huyền Anh đóng) đánh nhau dữ dội, Huyền
Anh “vì quá nhập vai” nên khi đập vỡ chai bia để đâm đối thủ không may
đâm trúng cánh tay của anh làm “máu phun vào cả người tôi (Lê Hoàng Hoa)
và cameraman Để”. Lê Hoàng Hoa cho ngừng để băng bó Trần Quang, định
hôm sau sẽ tiếp tục, nhưng Trần Quang không chịu bảo cứ để như vậy quay
luôn nhằm: “đỡ cho hóa trang, khỏi phải cho si rô vào (máu giả thường
làm bằng si rô)”, ông kết luận: “Trần Quang đúng là một diễn viên yêu
nghề”. Chính ở vai Hoàng Guitar trong Vết thù trên lưng ngựa hoang, Trần
Quang đoạt giải “nam diễn viên xuất sắc và được ưa chuộng nhất” - anh
tốt nghiệp thủ khoa Trường Quốc gia âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn khóa
đầu tiên vào thập niên 60 của thế kỷ trước. Sau cảnh “Hoàng Guitar gục
ngã” quay ở bãi Ô Quắn, ông Quốc Phong vui vẻ mời tất cả lên quán Tre dự
một bữa tiệc ngoài trời và công bố tin mới nhất:
- Các anh chị à, có 3 cuốn phim gồm Chân trời tím do Lê Hoàng Hoa đạo
diễn, Người tình không chân dung do Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn và Nàng do
Lê Mộng Hoàng đạo diễn, sẽ được gửi đi tham dự Đại hội Điện ảnh Á châu
lần thứ 17 tổ chức tại Đài Bắc vào tháng tới nhằm tháng 6.1971 này...
Nghĩa là còn một tháng nữa đoàn đại diện điện ảnh Sài Gòn sẽ lên
đường, trong đó dự kiến có nữ tài tử Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng, Túy
Hồng, Đoàn Châu Mậu, ông Tôn Thất Cảnh - Giám đốc Trung tâm điện ảnh,
ông Thái Thúc Nha - Giám đốc hãng phim Alpha, bà Lý Miên Nguyệt - Giám
đốc hãng Sống Film, đạo diễn Bùi Sơn Duân... Riêng đoàn của Liên Ảnh
Công ty đông nhất với ông Quốc Phong, Mỹ Vân, Lê Hoàng Hoa, Kim Vui và
Ánh Nga. Mọi người khá vui khi nghe thông báo trên, mà riêng Lê Hoàng
Hoa lại ngồi yên trầm ngâm. Người bên cạnh lên tiếng: “Anh Hoa, đang
nghĩ gì vậy?”. Đúng là ông đang mơ màng đến câu chuyện của 3 năm về
trước...
Lần đầu tiên đến Đài Bắc
Thời đang làm Phó giám đốc Đài truyền hình Việt Nam THVN-9 vào năm
1968, Lê Hoàng Hoa được Đài truyền hình Đài Bắc mời sang giao lưu nghiệp
vụ điện ảnh. Họ đưa ông đi thăm phim trường đang quay loạt phim Teenager Trail
do nữ diễn viên đang lên ở Đài Loan lúc bấy giờ là Hà Tú Anh đóng vai
chính và ông bị thu hút ngay từ đầu bởi cô diễn viên 19 tuổi này với
“một vẻ đẹp mà tôi thường bị ám ảnh khi đọc tiểu thuyết Quỳnh Dao”. Rồi
trong bữa cơm trưa do ông Giám đốc Đài truyền hình Đài Bắc chiêu đãi,
ông ngồi kế bên Hà Tú Anh hỏi chuyện, biết cô bước vào làng điện ảnh năm
17 tuổi và đang được công chúng ái mộ sau vai chính của 5 cuốn phim và
là “con duy nhất trong một gia đình trung lưu, bố là giáo sư đại học, mẹ
là dược sĩ”. Hai bên trao đổi rất lâu về hoạt động điện ảnh của Sài Gòn
và Đài Bắc cũng như đời thực của nhau. Trước giờ ra về, Hà Tú Anh đưa
ông một tấm danh thiếp khá đặc biệt, vì ngoài họ tên, số nhà, số điện
thoại, còn có dòng viết tay bằng tiếng Anh với nét chữ khá đẹp: “Give me
a ring if you have time (after 6 pm)” (tạm dịch: Nếu có thời gian (sau 6
giờ tối) thì gọi cho em). Đọc dòng trên, ông “bật dậy như cái lò xo,
nhấc điện thoại lên, nhưng rồi tôi lại đặt điện thoại xuống, vì kim đồng
hồ trên tay tôi lúc ấy chỉ mới 5 giờ 27 phút, tức là còn hơn nửa tiếng
nữa Tú Anh mới có ở nhà - chưa bao giờ tôi thấy 33 phút đồng hồ lại trôi
qua một cách chậm chạp như vậy”. Chỉ ngang đó, chúng ta cũng biết phần
nào trái tim đa cảm của Lê Hoàng Hoa - đạo diễn Sài Gòn một thuở...
Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Kỳ 9: Đến với Đại hội Điện ảnh Á Châu
Hai lần đến Đài Bắc để lại trong ký ức đạo diễn Lê Hoàng Hoa “những đêm ngà ngọc” trên đồi Kulin và “những ngày không quên” tại Đại hội Điện ảnh Á châu kỳ thứ 17.
Nữ tài tử Hà Tú Anh - ngôi sao sáng của điện ảnh Đài Bắc đã lái chiếc
SAAB màu trắng đưa ông lên ngọn đồi nhỏ qua những con đường trồng bạch
tùng dẫn đến ngôi nhà bằng gỗ sang trọng dùng làm một tiệm ăn hoàng gia…
Những cuộc hẹn ngoài phim trường
Họ ngồi trên bộ tràng kỷ khảm xà cừ, uống trà với các tách bằng ngọc
phỉ thúy, nhận chiếc phong bì màu vàng trong đó có tấm thiệp thông báo
thực đơn trong ngày. “Nhìn gương mặt xinh đẹp đang chăm chú đọc tấm
thiệp ấy, tôi thật tình không muốn ăn bất cứ món gì cho dù là sơn hào
hải vị mà chỉ muốn ngồi yên để nhìn nàng” (Bút ký).
Chợt Tú Anh ngẩng lên bảo hôm nay hai người gặp hên vì thực đơn có
món “Xuỵt Cạp” mà mỗi tháng chỉ làm một lần vào ngày nào đó khách không
ai biết trước và giải thích: “Xuỵt là tuyết, Cạp là con tắc kè”
là loại chỉ sống trên những ngọn núi quanh năm tuyết phủ. Lát sau,
người ta đem vào cái hộp bằng gấm, mở ra thấy có xác một con tắc kè đã
khô “màu vàng ánh trông rất đẹp”, hai “tỳ nữ” dùng đũa bẻ con
tắc kè làm hai, lấy ra từ cái ức của nó một hạt trắng như tuyết và nhỏ
bằng hạt gạo, gắp bỏ vào chén nước đường phèn đã nấu lọc trong suốt “chỉ một thoáng sau hạt trắng đó từ từ nở to ra và cuối cùng tràn đầy cả chén như một búp hoa tuyết”.
Theo khoa ẩm thực phương Đông, người ăn Xuỵt Cạp vào sẽ giúp hương vị
những món họ ăn tiếp đó nhanh chóng được thăng hoa, vì thế “những món ăn đi theo sau Xuỵt Cạp món nào cũng trở nên tuyệt vời”.
Rời bàn ăn, họ bước vào vũ trường lúc ban nhạc hòa tấu bản La Cumpasita. Ông khen “Tú
Anh nhảy chachacha thật lạ, những cái đá chân rất nhẹ ở bước thứ năm,
những cú quay nửa vòng rồi trở lại ngay trông thật đẹp mắt, dường như
nàng không nhảy mà “vờn” theo điệu nhạc, uyển chuyển nhẹ nhàng”. Gần 12 giờ khuya, trong điệu slow “vòng tay tôi từ từ khép lại và không một phản ứng nào từ phía Tú Anh - má tôi áp sát vào má nàng và tôi không còn biết gì nữa”...
Cuối tuần, bạn của Tú Anh là Tiểu Phụng đến chở ông ra khỏi thành
phố, lên ngọn đồi Ku-lin, dừng trước một biệt thự xây toàn bằng gỗ làm
nơi nghỉ mát của ba má Phụng, có Tú Anh đang làm bếp trong đó để dọn ra
mời ông “bữa ăn gia đình Đài Bắc” và nói chuyện về điện ảnh châu Á. Sau
đó, ông rời khách sạn đến đó ở và: “không thể nào quên hình ảnh của
những đêm ngà ngọc trong ngôi nhà đầy thơ mộng trên ngọn đồi Kulin” với
lời hẹn ngọt ngào: “Hoa, em yêu anh vô cùng… Em chỉ mong anh hứa với
em một điều như em đã tự hứa là nếu chúng ta còn có dịp gặp nhau thì
đừng ngoảnh mặt làm ngơ...”. Hà Tú Anh đã nói với ông như thế trong
đêm cuối họ bên nhau trước khi ông lên máy bay về lại Sài Gòn sau
chuyến sang Đài Bắc lần thứ nhất năm 1968.
Diễn tiến của Đại hội Điện ảnh Á châu kỳ thứ 17
Lần thứ hai ông khởi hành đến Đài Bắc ngày 3.6.1971 để dự Đại hội
Điện ảnh Á châu kỳ thứ 17 cùng các đoàn của Nhật Bản, Hồng Kông, Đại Hàn
(Hàn Quốc), Thái Lan, Indonesia, Campuchia, Singapore, Malaysia… Đại
hội khai mạc đêm 5.6.1971 tại Tòa thị chính của Đài Bắc - sau diễn văn
của Chủ tịch Nagachi Nagata, đại diện các phái đoàn lần lượt ra mắt công
chúng và giới yêu điện ảnh. Mở đầu là nữ tài tử Lăng Ba (Hồng Kông), nữ
tài tử Sakado Wakai (Nhật Bản), nữ tài tử Lee Soon Jei (Đại Hàn), nữ
tài tử Kiều Chinh (Việt Nam)... Đoàn có số diễn viên và quan sát viên
nghệ thuật đông nhất là Hồng Kông với gần 200 người.
Tối hôm ấy mở dạ hội diễu hành, dân chúng có thể mua vé vào xem. Bút ký Lê Hoàng Hoa ghi: “Đi
đầu là phái đoàn Campuchia với nữ tài tử Tia Ravin, theo sau là phái
đoàn Hồng Kông với các tài tử nổi tiếng như Nhạc Huê, Lý Thanh, Khương
Đại Vệ, Miêu Khả Tú, Địch Long, La Liệt, Hà Lợi Lợi... tiếp đến là phái
đoàn Indonesia với 3 nữ tài tử Sindra Dewin, Riwa Melati và Gabi Mambo.
Nhật Bản với các nữ tài tử Tachico Misomoto, Okado Shakai, nữ tài tử
kiêm ca sĩ nổi tiếng Shushumo Suzako và tài tử trẻ nhất, dễ thương nhất
là cô Masumi Tashibana. Đại Hàn với hai nữ tài tử thật đẹp Lee Soon Jei
và Lee Nac Soon, Singapore và Malaysia với hai cô Arizac và Lorac
Laiman. Thái Lan với nữ tài tử Lechonbog Nakarin. Việt Nam với các nữ
tài tử Kiều Chinh, Kim Vui, Túy Hồng, Ánh Nga và nam tài tử Đoàn Châu
Mậu. Những chiếc áo dài tha thướt dịu dàng đã được dân chúng Đài Bắc
hoan nghênh nhiệt liệt và đó cũng chính là điểm thu hút số đông phóng
viên báo chí và vô tuyến truyền hình. Cuối cùng là đoàn chủ nhà với đông
đảo diễn viên, trong đó có Wen Chang, Wen Peiling, Ji Ying, Hà Tú Anh
và nữ tài tử nổi tiếng nhất trong phim Long môn thần kiếm là Thượng Quan
Linh Phụng”.
Qua diễu hành nghệ thuật trên, Kiều Chinh được giới báo chí Đài Bắc
bầu là nữ tài tử khả ái nhất Đại hội Điện ảnh Á châu lần thứ 17. Trong
suốt thời gian diễn ra đại hội, một nữ diễn viên xinh đẹp luôn theo sát
phái đoàn Việt Nam là... Hà Tú Anh. Ngay khi mới gặp, Tú Anh nắm lấy tay
Lê Hoàng Hoa vừa kéo đi về phía chiếc SAAB màu trắng năm xưa, vừa nói:
“Đi anh, nhanh lên, không thì em sẽ khóc trước mặt mọi người bây giờ”...
Điện ảnh Sài Gòn một thuở - Kỳ 10: Câu thơ trên mộ
Hôm nay thứ sáu 3.8.2012 là ngày hỏa táng đạo diễn Lê Hoàng Hoa sau 80 năm ông dừng chân trên “cõi tạm”...
Kỷ niệm còn đây…
“Gia đình đạo diễn Hoa theo đạo Phật, mà đối với nhà Phật chết không
có nghĩa là hết, là chấm dứt tất cả, mà sẽ tiếp tục bước vào một hành
trình mới xa hơn...” - chúng tôi đã nghe sa môn Huệ Thiện nói như thế
vào giờ cúng ngọ trưa hôm qua 2.8 ở chùa Vạn Phước, đường Tuệ Tĩnh,
Q.11, TP.HCM - nơi mà chiều nay sau cuộc hỏa táng ở Bình Hưng Hòa, cốt
tro của đạo diễn Lê Hoàng Hoa sẽ đem về đó cầu siêu và gửi thờ. Hai ngày
qua, đông đảo văn nghệ sĩ, bạn bè đồng nghiệp ngành điện ảnh và người
ái mộ các thế hệ đã đến viếng linh cữu đạo diễn Lê Hoàng Hoa. Chủ tịch
UBND TP.HCM Lê Hoàng Quân, các giám đốc cùng đạo diễn, diễn viên nhiều
hãng phim, thân hữu trong nước và ngoài nước đã gửi vòng hoa vĩnh biệt.
Ban lễ tang (do ông Nguyễn Thái Hòa - Tổng giám đốc Công ty phim Giải
phóng làm trưởng ban) cùng gia đình thông báo lễ truy điệu cử hành lúc 6
giờ 15 sáng nay tại Nhà tang lễ số 25 Lê Quý Đôn, Q.3, TP.HCM.
Chúng tôi nhớ đạo diễn Lê Hoàng Hoa trong buổi gặp mặt cách đây chưa
đầy một tháng tại nhà riêng của ông ở Q.3, ông tình cờ nhắc đến cái
chết: “Tôi không bao giờ quên về chuyện một ngôi mộ đã thấy khi làm phim
Gác chuông nhà thờ. Phim đó có cảnh nhân vật Đoàn do La Thoại Tân đóng
lê bước nặng nề về phía một ngôi mộ rồi gục chết, trên lưng Đoàn còn cắm
ngập một con dao găm tới chuôi. Cảnh đó được tôi chọn quay tại nghĩa
trang Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn trước kia mà nay là mặt bằng tọa lạc của
Công viên Lê Văn Tám, Q.1”. Trong lúc đợi ê-kíp chuẩn bị cho cảnh quay,
ông “rảo bước quanh nghĩa trang và dừng lại trước mộ nhỏ của em bé gái
mới 8 tuổi, thấy trên mộ có một cuốn sách xây xi măng có khắc hai câu
thơ bằng tiếng Pháp, không hiểu sao hai câu thơ đó theo đuổi tâm trí tôi
hàng chục năm ròng nhất là mỗi lần nghe ai nhắc đến cái chết...”.
Đó là hai câu: “Le temps passe - Le souvenir reste” của một thi sĩ
Pháp (nghĩa là: Thời gian trôi qua - kỷ niệm còn đây, dường như Bùi
Giáng đã dịch: “Thời gian lặng lẽ trôi qua - Niềm thương ở chốn giang hà
chưa trôi”). Vừa nói Lê Hoàng Hoa vừa giở cuốn bút ký Những tháng ngày
làm phim chỉ vào số trang 41 mà ông tự tay đánh số sẵn để chúng tôi xem
những dòng ông viết: “Tôi trở về địa điểm quay với ý nghĩ trong đầu sẽ
có một ngày tôi đưa hai câu đầy yêu thương trên vào một phim nào đó...
nhưng mãi đến 23 năm sau tôi mới thực hiện được ý định đó trong bộ phim
Tình nhỏ làm sao quên với các diễn viên Mỹ Duyên, Đơn Dương, Lê Cung
Bắc, Hồng Vân...”.
Những con người kỳ lạ
Bút ký Lê Hoàng Hoa chứa đựng giá trị tư liệu về công việc của một
đạo diễn làm phim thập niên 1960 và nửa đầu thập niên 1970. Có đoạn rất
cụ thể: “trước khi chuyển âm tôi đã cùng nhạc sĩ Hoàng Trọng ngồi xem
lại hết 9 cuộn final cut trên máy Moviola và thảo luận về những đoạn nào
trong phim cần phải có nhạc. Anh Hoàng Trọng (đã cùng cô Xinh) ghi rõ
những đoạn cần viết nhạc, đo độ dài của những mood nhạc, để xong phần
chuyển âm là thu nhạc ngay trước khi hòa âm. Cùng lúc đó bên ráp nối
phải lọc ra những tiếng động thật như tiếng súng đạn đủ các loại, tiếng
đóng, mở cửa xe, tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom nổ rền vang, tiếng sóng
biển... để cho bên âm thanh chọn lựa từ kho tiếng động của trung tâm
điện ảnh rồi thu qua phim từ tính (magnetic film)”. Ông phải kiểm tra
những công đoạn khác: “họa sĩ Kha Thùy Châu thì đang kẻ chữ cho bản
générique để gửi qua Nhật in chồng lên đoạn mở đầu (surimpose) - mọi
việc liên quan đến cuốn phim, người đạo diễn phải để mắt tới và phải
chịu trách nhiệm tất cả, do đó hầu như suốt ngày tôi không lúc nào có
thời gian rảnh...”.
Ông ghi nhận những “con người kỳ lạ” trong sinh hoạt thường ngày, như
ông Giám đốc Mỹ Vân cầm đĩa bánh bèo trút vào chén chè đậu đỏ “trộn lên
rồi dùng thìa múc ăn một cách ngon lành, trong đoàn có người thắc mắc
tại sao ông ăn uống kỳ cục vậy thì ông ta trả lời tỉnh bơ: - Các cậu ăn
riêng từng món, đến lúc vào trong bụng chúng cũng trộn lại với nhau, có
gì đâu mà kỳ!”. Nhưng người kỳ lạ nhất đối với Lê Hoàng Hoa là ông
Nguyễn Văn Liêm, Giám đốc hãng Liêm Film (đồng thời là chủ hai nhà hàng
lớn nổi tiếng: Tự Do và La Pagode). Có lần ông Liêm mua 2 vé máy bay khứ
hồi để đi cùng Lê Hoàng Hoa lên Đà Lạt. Lê Hoàng Hoa đã ra phi trường
Tân Sơn Nhất chờ mãi không thấy, gọi điện thoại về hỏi, ông Liêm không
trả lời - hỏi lại: “Anh đang ở đâu đó?”. Ông Hoa bảo đang ở phi trường,
ông Liêm hỏi nữa: “Ở phi trường làm gì? Đáp: “Đi Đà Lạt!”. “Đi Đà Lạt
làm gì?”. Tới đó Lê Hoàng Hoa khựng lại một lúc, rồi nhắc chính ông Liêm
đã mua vé máy bay cho hai người cùng đi. Đầu dây bên kia kêu lên: “Ôi
thôi chết rồi!...”. Tuy vậy “cho đến giờ phút này ông Liêm vẫn là người
tôi quý trọng nhất trong số các ông bà chủ hãng phim mà tôi đã hợp tác,
mặc dù con người của ông đã nhiều lúc làm tôi không hiểu nổi” - Lê Hoàng
Hoa viết.
Trong lần gặp cuối, Lê Hoàng Hoa nói đang sống hạnh phúc nhiều năm
qua với vợ là chị Trúc Quỳnh và con gái Michelle Quỳnh Anh tại Varsevie:
“tôi sang Ba Lan định cư nên ngôi nhà ở hẻm số 351 Lê Văn Sỹ cho thuê,
nhưng nhất định chừa ra căn phòng này để gìn giữ các tài liệu của tôi”.
Hôm ông mất, chúng tôi đến lại ngôi nhà trên, thấy căn phòng riêng của
ông khóa kỹ, ở gian giữa có bàn thờ Phật với ảnh các cụ đã vãng sanh,
vắng lạnh từ ngày ông hôn mê trong bệnh viện... (Còn tiếp)
Giao Hưởng (Báo Thanh Niên)
ĐẠO DIỄN LÊ HOÀNG HOA TỪ TRẦN
Vào 0 giờ 40 phút sáng nay (31.7), khi số báo này chuẩn
bị chuyển đi in, chúng tôi nhận được tin từ Bệnh viện Nhân dân 115
(TP.HCM) cho biết đạo diễn Lê Hoàng Hoa đã từ trần, thọ 80 tuổi. Trước
đó, trao đổi với Thanh Niên, bác sĩ Phan Văn Báu, Giám đốc Bệnh viện
Nhân dân 115 (TP.HCM), cho biết bệnh viện đã tạo điều kiện điều trị tốt
nhất cho đạo diễn, kể cả xem xét hỗ trợ chi phí điều trị. Tuy nhiên, do
bệnh nặng nên ông đã không qua khỏi. Theo các bác sĩ, đạo diễn đã trải
qua tình trạng hôn mê sâu, phải thở bằng máy một thời gian, trên nền
tiền sử nhiều bệnh như nhồi máu cơ tim, đái tháo đường thể 2, tăng huyết
áp. Trước đó, do bị tai nạn, đạo diễn được đưa vào một bệnh viện tư để
phẫu thuật, nhưng rồi tình trạng bệnh diễn tiến nặng nên ông được chuyển
sang Bệnh viện Nhân dân 115.
Thanh Tùng
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét