THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

Đạo diễn hình ảnh: Hoạ sĩ vẽ bằng ánh sáng. ( Director of Photography- Cinematographer )

Thời trước, công việc quay phim được giao cho một người. Người này không chỉ sử dụng máy quay mà còn phải rửa và tráng phim trong phòng kín. Tuy nhiên theo thời gian, khi nghệ thuật quay phim ngày càng phát triển và trở nên phức tạp, nhiệm vụ của nhà quay phim dần dần đặc trưng hơn và sự đóng góp của họ trong bộ phim ngày càng quan trọng. Rất nhiều sáng tạo kỹ thuật ghi nhận cho đạo diễn D.W.Griffith bắt nguồn từ nhà quay phim của ông, Billy Bitzer, hoặc sự cộng tác thân thiết đầy sáng tạo giữa hai người.

1. Họa sĩ vẽ bằng ánh sáng
Thời trước, công việc quay phim được giao cho một người. Người này không chỉ sử dụng máy quay mà còn phải rửa và tráng phim trong phòng kín. Tuy nhiên theo thời gian, khi nghệ thuật quay phim ngày càng phát triển và trở nên phức tạp, nhiệm vụ của nhà quay phim dần dần đặc trưng hơn và sự đóng góp của họ trong bộ phim ngày càng quan trọng. Rất nhiều sáng tạo kỹ thuật ghi nhận cho đạo diễn D.W.Griffith bắt nguồn từ nhà quay phim của ông, Billy Bitzer, hoặc sự cộng tác thân thiết đầy sáng tạo giữa hai người.

Đạo diễn hình ảnh hiện đại ( Director of Photography- Cinematographer )
Không bắt buộc là người trực tiếp cầm máy quay, nhưng họ phải chuyển tải được ý tưởng của biên kịch và đạo diễn thành hình ảnh sống động. Dưới tay Đạo diễn hình ảnh có nhiều người phụ trách từng việc riêng biệt. Những người này giúp Đạo diễn hình ảnh rảnh rang để giải quyết trách nhiệm chính - sáng tạo tâm trạng, không khí, kiểu quay phù hợp cho mỗi cảnh và duy trì chất lượng những việc này trong suốt cả phim.

Đạo diễn hình ảnh được coi là hoạ sĩ vẽ bằng ánh sáng. "Nếu không nhờ trình độ và tài năng của đạo diễn hình ảnh thì không thể nào chuyển tác phẩm của nhà văn thành những cảnh phim sống động cho mọi người xem", nhà quay phim Michael Benson nói. Vai trò của Đạo diễn hình ảnh bắt đầu từ khi phim còn chưa bắt đầu bấm máy. Họ thường xuyên phải hội ý với nhà sản xuất và đạo diễn về vô số chi tiết kỹ thuật, kể cả sự lựa chọn nguyên liệu phim và phòng kín. Họ cũng thường chọn địa điểm được tả trong kịch bản để chắc chắn nó thích hợp với cảnh quay, tính toán bao nhiêu máy quay và dụng cụ ánh sáng đủ để quay cảnh đó. Đạo diễn nghệ thuật và hoạ sĩ thiết kế phông màn cùng thảo luận với đạo diễn hình ảnh về góc độ ánh sáng và cách lắp đặt máy quay trong mỗi cảnh.


Nhiều người nghĩ rằng đạo diễn chỉ cho diễn viên những việc phải làm và Đạo diễn hình ảnh ghi hình cảnh đó. Điều đó đúng, nhưng quá trình này không chỉ đơn giản như vậy. Sự chuyển biến từ kịch bản ban đầu đến những hình ảnh trên màn ảnh rộng diễn ra qua ống kính của Đạo diễn hình ảnh. Làm phim là tập hợp những gì có sẵn và lọc qua một thiết bị- máy quay. Trước khi ghi hình cảnh đầu tiên, tất cả chỉ có hợp đồng, ý tưởng, khái niệm, kịch bản, và hy vọng mà thôi.

Một khi phim đã khởi quay, đạo diễn hình ảnh là người quan trọng thứ hai trong đoàn, chỉ sau đạo diễn. Làm việc cùng nhau, đạo diễn và đạo diễn hình ảnh quyết định góc quay, bố trí, chuyển động máy quay trong từng phân cảnh. Việc gì đã làm cho đạo diễn hình ảnh đặt máy quay ở đây mà không là ở đằng kia? Janusz Kaminski cho rằng: "Tất cả những kinh nghiệm cuộc đời của một người tạo ra mỗi chọn lựa sáng tạo của anh ta. Đó là điều tạo nên dấu ấn riêng cho mỗi đạo diễn hình ảnh". Rồi họ chọn ống kính và bộ lọc sáng phù hợp để có thể đạt được những nét cơ bản theo kịch bản có trước, xác định độ sáng, dựng dụng cụ tạo sáng để tạo được hiệu quả và màu sắc đặc thù. Sau đó đạo diễn hình ảnh cùng xem lại cảnh đã quay mỗi ngày để đánh giá hiệu quả công việc và thay đổi kịp thời trong lần quay tới.

Vào giai đoạn cuối, đạo diễn hình ảnh giám sát sự thay đổi của bản phim đầu tiên trong phòng kín để chắc chắn độ sáng và phong thái các màu sắc chủ đạo phù hợp với những hình ảnh chất lượng trên màn ảnh rộng cho khán giả thưởng thức. Đạo diễn hình ảnh bỏ nhiều thời gian vào công việc, bù lại họ mang đến cho khán giả, trong vài giây phút ngắn ngủi, cơ hội để đến một thế giới hoàn toàn mới lạ.

2. Các vị trí khác trong nhóm quay phim

Đạo diễn hình ảnh có phải là nhà quay phim không?
Câu trả lời là "phải". Trong những đoàn làm phim nhỏ, Đạo diễn hình ảnh vẫn hay đảm nhận việc ghi hình. Nhưng nhà quay phim không phải lúc nào cũng là Đạo diễn hình ảnh. Nhà quay phim thường sử dụng ánh sáng từ các hướng khác nhau để quay cận cảnh mặt diễn viên. Đôi lúc trong những cảnh nhiều máy quay phim ở các góc độ, họ không sử dụng ánh đèn nào cả. Nhà quay phim điều khiển máy quay, kiểm tra và chịu trách nhiệm về các đoạn phim đã thực hiện: ánh sáng, góc nhìn, hình ảnh và sự diễn đạt âm thanh. Họ cần nắm rõ cấu tạo của máy quay và thường giải quyết những vấn đề kỹ thuật xảy ra trong suốt quá trình làm phim.

Đạo diễn hình ảnh thì thạo sử dụng ánh sáng với nhiều kiểu và độ nhoè khác nhau. Trong những cảnh hoành tráng, đạo diễn hình ảnh thường quản lý nhiều nhà quay phim lo riêng về các chuyển động của máy quay. Sự khác biệt giữa hai chức danh, ngoài kinh nghiệm và kỹ thuật, còn nằm ở khoản lương họ nhận được.


Trong những đoàn làm phim lớn sẽ có thêm:

+ Trợ lý quay phim thứ nhất ( Focus Fuller ) - thay ống kính, giữ máy quay hoạt động theo đúng chế độ, giữ nguyên mục tiêu khi máy quay chuyển động, đánh dấu vị trí diễn viên đứng và đo khoảng cách từ vật thể đến ống kính.

+ Trợ lý quay phim thứ hai ( Clap Boy)- chuẩn bị đạo cụ cho Trợ lý thứ nhất, thay phim, điền vào bản báo cáo hoạt động và sử dụng clapperboard ở đầu hay cuối mỗi phân cảnh.

+ Phụ trách ánh sáng ( Gaffer )
Vai trò của người phụ trách ánh sáng ảnh hưởng mật thiết đến sự thành công của một bộ phim. Nói cho cùng, tất cả những công việc sản xuất như phông màn, đạo cụ, tài năng, và quay phim đều phải dựa vào ánh sáng mới nổi bật được. Ánh sáng ẩu dễ làm hư một tác phẩm nghệ thuật, và ngược lại, ánh sáng đẹp sẽ làm tăng thêm giá trị một bộ phim bình thường.

Phụ trách ánh sáng quản lý độ sáng, màu sắc, độ tương phản, nguồn sáng và tính tự nhiên của ánh sáng. Họ cũng thường là người quản lý điện đóm, bảo đảm đủ năng lượng cho các độ sáng ở mọi cảnh quay. Trong những cảnh rộng, họ thường có thợ điện và vài người thợ lắp ráp giúp những việc tay chân cần thiết cho các yêu cầu điện đóm. Nhờ đó người phụ trách có thể rảnh rang lo ánh sáng, cụ thể là thiết kế, sắp đặt, và điều khiển những thiết bị ánh sáng và dàn đèn.

Kinh nghiệm và phong cách là những yếu tố cần thiết để chọn một người quản lý ánh sáng. Kinh nghiệm rất quan trọng. Lo ánh sáng cho một góc quay hay nhiều góc quay cùng một lúc là những chuyện rất khác nhau. Nhiều người phụ trách ánh sáng đã vô cùng lúng túng khi tìm cách lên đèn cho một cảnh sử dụng nhiều máy quay ở các góc độ, nhất là khi họ đã quen với kiểu quay một máy. Nói về phong cách, đó là khả năng ghi nhớ bối cảnh của một bộ phim. Ví dụ trong một bộ phim khung cảnh đồng quê, phụ trách ánh sáng cần chú ý hạn chế kiểu ánh sáng thành thị màu mè.

Phụ trách ánh sáng phối hợp chặt chẽ với Đạo diễn hình ảnh để cùng làm tôn lên phong cách nghệ thuật của một bộ phim. Họ thường đứng ở vị trí thứ ba, sau Đạo diễn, Đạo diễn hình ảnh ( và nhà quay phim, nếu có ). Có câu chuyện kể rằng khi một vị đạo diễn hình ảnh nổi tiếng và đáng kính được các sinh viên hỏi điều gì quan trọng nhất họ có thể làm để nâng cao chất lượng hình ảnh, ông đã trả lời: "Hãy thuê người phụ trách ánh sáng tốt nhất có thể, thậm chí chia một phần lương của mình cho anh ta".

+ Trợ lý ánh sáng ( Best Boy )

Trong những đoàn làm phim lớn sẽ có trợ lý ánh sáng. Trợ lý làm việc chủ yếu với đạo diễn hình ảnh và là cánh tay phải của người phụ trách ánh sáng. Công việc chủ yếu của họ là bảo đảm điện năng, chăm lo cho nhóm quay phim, lắp đặt thiết bị, quản lý công việc giấy tờ, và thuê thêm người nếu có những cảnh quay lớn phức tạp. Đôi lúc khi quản lý ánh sáng quá bận, người trợ lý này phải luôn luôn sẵn sàng để phụ việc hoặc làm thay người phụ trách ánh sáng.

Một khi Đạo diễn hình ảnh và phụ trách ánh sáng đã hội ý xong, công việc của trợ lý ánh sáng là lên đèn ở độ sáng và mờ cần thiết để phối hợp với tốc độ phim, tương phản, thiết bị lọc sáng, ống kính, và loại phim. Thường những bóng đèn họ sử dụng là những bóng đèn lớn ( 12,000 W đến 36,000 W ) và cần khá nhiều điện năng. Vài loại bóng đèn họ sử dụng được thiết kế đặc biệt chỉ dùng để bắt chước ánh sáng ngày ( đèn HMI ) hoặc đêm ( đèn Tungsten ). Họ cũng có những loại keo để tạo ra nhiều màu sắc khác nhau và làm ánh sáng nhạt hơn.

Hậu đài ( Grips )

+ Key Grip: Quản lý các nhân viên hậu đài. Đồng thời đây cũng là người tháp tùng và mang theo đầy đủ đồ nghề cho nhà quay phim đến những địa điểm quay.

+ Second Company Grip: Đặt hàng dụng cụ cần thiết cho công việc hậu đài ở mỗi phim.

+ Crane/ Dolly Grip: Người thiết kế đường ray máy quay, điều khiển tay cẩu máy quay hoặc lo phần "chân" của các máy quay, như cây chống, cây dù đủ cỡ...

+ Construction Grip: Dựng/ tháo phông màn, dựng dàn đèn, bảo trì phông cảnh.

+ Company Grips: Giúp việc lặt vặt cần thiết khi dựng cảnh.

3. Một số kỹ thuật quay phim

Góc quay là góc nhìn từ máy quay với chiều sâu, chiều dài, chiều rộng cân xứng với vật hay hành động được quay. Góc nhìn từ máy quay không chỉ quyết định cái gì sẽ xuất hiện trong cảnh đó mà nói chung còn là cách khán giả sẽ nhìn sự việc - gần hay xa, từ trên xuống hay từ dưới lên, chủ quan hay khách quan…

Do đó sự chọn góc quay không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ câu truyện mà còn thể hiện chất lượng thẩm mỹ của cảnh quay và quan điểm tâm lý của khán giả. Qua nhiều năm, đạo diễn và nhà quay phim đã thành lập một kiểu quy ước liên quan đến kỹ thuật, thẩm mỹ và đặc tính tâm lý của nhiều góc quay khác nhau.

Góc ngang ( vừa tầm mắt ) để diễn tả cảnh giống như thật nhưng ít kịch tính. Người ta cho là nó cung cấp cái nhìn bình thường và thường quay từ độ cao 1.2 m đến 1.8 m. Tầm mắt của nghệ sĩ ( chứ không phải của nhà quay phim ) quyết định chiều cao của máy quay, và đặc biệt chủ yếu trong những khi quay cận cảnh. Vì hướng nhìn bình thường nên cảnh quay góc ngang thường được sử dụng để tạo nên tình huống và chuẩn bị cho khán giả một cảnh liên quan.

Trong cảnh quay góc cao máy quay nhìn xuống sự vật. Theo kỹ thuật thì nó có thể cho phép đạo diễn có cái nhìn bao trùm hết mặt đất và hành động trong chiều sâu. Cảnh như vậy cũng sẽ có khuynh hướng làm chậm hành động lại và giảm bớt độ cao của sự vật hay nhân vật ( theo luật xa gần ). Nét đặc trưng cuối cùng này có thể gây ra nhiều hiệu quả tâm lý phụ, ví dụ như cho khán giả cảm giác mạnh mẽ hơn nhân vật trên màn ảnh hay ngụ ý hạ thấp tầm quan trong của bất cứ nhân vật nào với những người hoặc khung cảnh xung quanh.


Trong phim của Murnau The Last Laugh, diễn viên Emil Jannings thường được quay từ trên xuống sau sự sụp đổ của ông, trong khi trước đó các cảnh miêu tả ông như là một ông gác cổng kiêu hãnh thường được quay ở góc thấp. Trong cảnh quay góc thấp, máy quay thường đặt ở dưới nhìn lên sự vật. Hiệu quả của cách này thường là để tạo kịch tính, tạo nên sự xuyên tạc quyền lực của viễn cảnh và toàn bộ sự việc. Nó thường đẩy nhanh diễn biến phim, thêm tầm cao và sức mạnh cho nhân vật.

Sự sắp đặt máy quay góc thấp chiếm ưu thế trong phim Citizen Kane của Orson Welles để làm nổi bật sự to lớn phi thường của ông trùm báo chí. Để chấp nhận việc thường xuyên sử dụng kiểu quay này, Welles đã phải xây dựng phim trường toàn là trần nhà. Chính sự có mặt khắp nơi của trần nhà ở cảnh nền đã tạo nên một trong những nét đặc trưng khác thường của Citizen Kane. Chỉ đơn thuần thay đổi góc quay, đạo diễn có thể không chỉ cho thấy sự thăng trầm trong cuộc đời nhân vật mà còn thổi vào thái độ khán giả phải chấp nhận qua những cá tính và hành động trong phim.

Sự đa dạng trong các góc quay là vô tận. Không có luật lệ nào về chuyện phải sử dụng góc quay nhất định cho một cảnh nào đó. Góc ngang, góc cao và góc thấp chỉ là những nhóm chính, như là cách quay cạnh ( thêm một chiều nữa cho sự vật ), góc Hà Lan / khung nghiêng ( nhìn sự vật trong cái nhìn nghiêng hiệu quả cao ) và rất nhiều góc quay khác được sử dụng cũng như chưa được biết đến qua bao nhiêu thập kỷ làm phim.

Chuyển động máy quay là sự di chuyển ngang, dọc, theo đường ray ( sự chuyển động của máy quay trên một đường ray ngắn đặt sẵn quay theo vật thể di chuyển ) và phóng to thu nhỏ. Có những quy ước quan sát quốc tế dành cho chuyển động máy quay. Theo quy định, một nhà quay phim sẽ chạy máy quay ở vị trí nhất định trong một thời gian ngắn trước khi bắt đầu chuyển động, và đứng im một lần nữa sau khi hoàn tất chuyển động. Luật lệ này không chỉ giúp cho hình ảnh chuyển động uyển chuyển mà còn cho phép biên tập viên có sự lựa chọn giữa cảnh tĩnh và cảnh động khi đang chỉnh sửa phim.

Một cách nhìn thoáng hơn về luật này là chuyển động bắt đầu và kết thúc ở một điểm đặc biệt nào đó đã được chọn sẵn và quay tập nhiều lần trước khi quay chính thức. Đạo diễn hình ảnh trong trường hợp này khá quan trọng trong việc quyết định chuyển động máy, ví dụ sau một cảnh quay ngang từ trái sang phải không thể nào có cảnh quay ngang từ phải sang trái, hay là sự chuyển động của nghệ sĩ từ trái sang phải không thể theo sau một sự chuyển động khác từ hướng ngược lại.

Ngoài kiểu quay thường còn có kiểu quay cầm tay, một máy quay xách tay nhẹ cân cầm trên tay của nhà quay phim và dựa vào vai của người đó mà không cần dùng chân chống. Kiểu quay này bắt nguồn từ nhà quay phim thời sự và được sử dụng rộng rãi trong các phim tài liệu và những nhà làm phim tiên phong. Đầu những năm 60’ việc sử dụng máy quay phim cầm tay trong việc sản xuất phim điện ảnh ngày càng tăng, vừa tiện lợi vừa đạt được cảm giác thật hơn trong một số cảnh quay.

Nguyên tắc 180° trong Điện Ảnh


Cùng RGB.vn khám phá những kỹ thuật làm phim không thể bỏ qua.

Ngày nay, việc thực hiện một bộ phim đã không còn quá khó. Với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, cùng sự sáng tạo của các chuyên gia, các Nhà làm Phim đã đưa Điện Ảnh tới gần hơn với công chúng, mở một lối đi rộng hơn cho những người yêu thích bộ môn Nghệ thuật thứ Bảy. Người ta dễ dàng có thể tự cầm Camera, dàn dựng và quay 1 bộ Phim của riêng mình. Trong số đó có một số không nhỏ các Tác phẩm chỉ đảm bảo về mặt Kỹ thuật. Và tất nhiên Điện ảnh không chỉ dừng lại ở đó. Một Tác phẩm Điện ảnh thật sự còn đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu biết thêm về mặt Nghệ thuật nữa. Đây là điều rất cần thiết, đặc biệt là với những người mới bước chân vào làm Điện Ảnh.

Điện Ảnh – Người con sinh sau đẻ muộn


Để minh chứng cho điều này, chúng ta hãy cùng quay lại khoảng thời gian cuối thế kỷ 19. Khi đứa con kế tiếp của dòng họ “Nghệ Thuật” mang tên Điện ảnh ra đời. Dòng họ này ngày đó gồm bảy thành viên: trong đó Hội Họa và Âm Nhạc là hai anh cả, tiếp đến là Vũ kịch (Khiêu vũ – Sân khấu), Kiến trúc, Điêu khắc, và cuối cùng là em út – Điện Ảnh. Có lẽ nhờ sinh sau đẻ muộn, nên Điện Ảnh đã được thừa hưởng đầy đủ những yếu tố của các bậc “anh chị” của mình. Người ta luôn có thể thấy được đâu đó trong Điện ảnh luôn có bóng dáng của người anh Hội Họa, Vũ kịch, hoặc là Điêu Khắc…

Hơn thế nữa, Điện ảnh luôn ý thức được ai đã sinh ra mình – đó không có gì khác, chính là loài người. Bởi nó được thai nghén và sinh ra bằng trí tưởng tượng phong phú, phát triển bằng óc sáng tạo không ngừng nghỉ của “cha mẹ đẻ”, như một lẽ đương nhiên, Điện Ảnh sinh ra cũng là để thực hiện một nhiệm vụ – đó là phục vụ cho “cha mẹ” của mình, cho loài người.

Vậy Điện ảnh phục vụ con người dựa trên yếu tố gì?Câu hỏi tưởng chừng như là lớn đó lại được lý giải bằng những điều rất giản đơn.

Nguyên tắc 180° – Đừng vượt qua ranh giới

Một trong những yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất đó là Thị Giác. Khi thưởng thức một tác phẩm Điện ảnh, những thứ mà con người nhìn thấy trên màn ảnh sẽ đưa vào bộ não, não bộ phân tích sau đó được phản hồi lại bằng Cảm Giác. Nếu như Thị Giác tiếp nhận thông tin sai thì ngay lập tức Cảm giác cũng sẽ bị sai theo.

Câu hỏi đặt ra là: Các Nhà làm Phim phải làm sao để gửi đến khán giả những cảm xúc tuyệt vời một cách mềm mại và xuyên suốt trong quá trình của câu chuyện phim mà không hề khiến khán giả bị phân tâm vì những thông tin sai lệch đó?”

Câu trả lời là: Các Nhà làm Phim phải hiểu được các Nguyên tắc thuộc về Thị giác con người“.

Và trong Điện ảnh có một “Nguyên tắc thuộc về Thị giác con người” rất quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất đối với các Nhà làm Phim – Nguyên tắc 180°(180° Rule)

Chúng hãy thử tượng 1 cảnh Phim có 2 Nhân vật đối diện nhau:

Từ các nhân vật ta có thể nối được các trục giữa gọi là Trục liên kết.

Nguyên tắc 180°: Nguyên tắc luôn đặt máy quay về một phía của Trục liên kết giữa các Nhân vật.

Sơ đồ 1
Sơ đồ này cho ta thấy trục liên kết giữa hai nhân vật và các vị trí trên Vòng cung 180° màu Xanh, mà máy quay có thể đặt để quay. Khi cắt cảnh chuyển sang các vị trí trên vòng cung 180° màu Đỏ, các Nhân vật ngay lập tức chuyển đổi vị trí trên màn hình.

Và cứ thế liên tiếp các Shot liền kề nhau sẽ khiến khán giả không còn ý thức về không gian của bối cảnh, mối liên hệ giữa các Nhân vật, hướng chuyển động và hướng nhìn của Nhân vật trong bối cảnh.
Xác định rõ vị trí của Nhân vật và Bối cảnh của cảnh Phim

Hướng của Nhân vật được bảo toàn

Hướng của Nhân vật được bảo toàn

Tác dụng của Nguyên tắc 180° 

Những dẫn chứng minh họa ở trên đã giúp ta nhận thức được rằng phải tuân thủ Nguyên tắc 180° như thế nào. Vậy, Nguyên tắc đó có tác dụng gì, nhằm mục đích gì và tại sao phải phải tuân theo nó? Chúng ta hãy cùng xem xét điều đó.

1. Đảm bảo việc tạo ra cho khán giả khái niệm đúng về không gian và những gì đang diễn ra trong bối cảnh của Phim.
Nguyên tắc 180° đảm bảo sự nhất quán về vị trí tương đối trong khung hình, đảm bảo hướng nhìn, đảm bảo hành động nhất quán. Phương pháp này vạch ra không gian rõ ràng vì thế người xem luôn biết các nhân vật ở đâu trong mối tương quan giữa người này với người khác và dựng cảnh, đặc biệt là trong mối tương quan với hành động của câu chuyện. Chính vì thế, nguyên tắc nối tiếp không gian mang lại dòng chảy êm thuận giữa các cảnh quay trong toàn bộ phim.

2. Đảm bảo việc thể hiện mối quan hệ dựa trên hướng nhìn của các Nhân vật cùng xuất hiện trong bối cảnh đó.
Nguyên tắc 180° được duy trì đảm bảo hướng nhìn của nhân vật luôn nhất quán.

Chẳng hạn, khung hình 1 thể hiện hai nhân vật A và B đang nói chuyện với nhau. Khuôn hình 2 thể hiện hướng nhìn của A từ trái sang phải và khuôn hình 3 thể hiện hướng nhìn của nhân vật B từ phải sang trái. Nếu khuôn hình 3 thể hiện hướng nhìn của nhân vật B cùng chiều với nhân vật A, tức là từ trái sang phải thì sẽ làm cho hướng nhìn của nhân vật không nhất quán, tức vi phạm Nguyên tắc 180°.
Khuôn hình thể hiện hướng nhìn của 2 Nhân vật: 1 Nam và 1 Nữ

Đặt máy ở 2 phía của Trục liên kết


Nhân vật Nam nhìn về phía phải của khuôn hình

Nhân vật Nũ cũng nhìn về phía phải của khuôn hình

Hay trong Các cú máy được gọi là các Cú máy đảo góc (Reverse angle shots). Đặt máy ở 2 phía của Trục liên kết

Nhân vật Nam nhìn về phía Trái của khuôn hình

Nhân vật Nữ cũng nhìn về phía Trái của khuôn hình

Và sau suốt quá trình dài của Cảnh Phim, việc vi phạm Nguyên tắc 180° khiến cho khán giả hình thành một ý thức lẫn lộn sự tương quan giữa các Nhân vật và dẫn tới họ bị nhầm lẫn cả về không gian, nơi diễn ra câu chuyện Phim.

3. Đảm bảo việc để khán giả có thể nhận thức đúng được hướng chuyển động của các đối tượng trong cảnh Phim.
Cần chú ý đến hướng chuyển động của đối tượng chính trong khuôn hình, tránh để khán giả hiểu sai về hướng chuyển động, sẽ dẫn đến việc sai cảm nhận về không gian.

Nguyên tắc 180°, được sử dụng nhằm duy trì sự nhất quán trong hướng hành động của nhân vật. Chẳng hạn khuôn hình 1, nhân vật A đi từ trái sang phải. Hướng chuyển động của nhân vật từ trái sang phải làm thành trục hành động. Khuôn hình 2, nhân vật A vẫn phải đi theo hướng từ trái sang phải, tức duy trì hướng hành động của nhân vật. Nhưng khi một cảnh quay vượt qua trục đó, tức một cảnh quay từ phía bên kia làm cho nhân vật A trong khuôn hình 2 thay vì đi từ trái sang phải lại đi từ phải sang trái. Một cắt dựng không đảm bảo sự nhất quán trong hành động như vậy đã vi phạm Nguyên tắc 180°.

Đặt máy quay lật qua bên kia của trục liên kết

Và kết quả cuối cùng là đưa cho Khán giả 1 nhận thúc sai về hướng chuyển động của Nhân vật

Nguyên tắc cuối cùng – Phá vỡ Nguyên tắc

Nguyên tắc 180° là một yếu tố thiết yếu của một phong cách Quay và dựng phim liên tục. Quy tắc này không phải lúc nào cũng cần phải tuân theo, chúng ta có thể hoàn toàn phá vỡ nó khi thật sự hiểu sâu về nó.

Đôi khi một nhà làm Phim trên thế giới cố tình phá vỡ đường dây của hành động để tạo ra 1 góc nhìn, 1 cảm giác thú vị mới, hay tạo sự mất phương hướng. Và một trong những người đi tiên phong đó là Stanley Kubrick – Một đạo diễn Điện ảnh Mỹ qua Bộ Phim The Shining (Cảnh trong phòng Tắm). Ngoài ra, có thể kể tên 1 số Đạo diễn khác mà đôi khi cũng bỏ qua quy tắc này như: Anh em nhà Wachowski – Mỹ, Đạo diễn Yasujiro Ozu – Nhật Bản, Tinto Brass – Ý, Vương Gia Vệ – Hồng Kông, Jacques Tati – Pháp và Lars von Trier – Đan Mạch … Và tất nhiên đấy là câu chuyện của các Đạo diễn lớn trên thế giới, sau quá trình dài làm việc, họ luôn ý thức rất rõ về các Nguyên tắc trong Điện Ảnh. Nghệ thuật không cho phép sự nhàm chán, lặp đi lặp lại, chính vì lẽ đó họ phải tìm cách phá nó, và đưa ra những cảm giác mới – các Nguyên tắc mới, giúp khán giả có những góc nhìn khác khi thưởng thức các tác phẩm Điện ảnh.

Còn bạn, sau khi bạn thật sự đã hiểu những điều đó, bạn vẫn muốn tuân theo Nguyên tắc 180°, có một cách mà có thể giúp chúng ta băng qua ranh giới (Trục liên kết) một cách an toàn mà không vi phạm Nguyên tắc:

Bạn hãy quay 1 shot máy chuyển động băng qua ranh giới.

Trong khi Máy quay đang di chuyển trên đường đi của mình khán giả sẽ dần thích ứng với các vị trí mới của nhân vật, mà không hề cảm thấy có chỗ nào bị nhầm lẫn.





Theo NamLH / arena.edu.vn (đăng trên GRB)



Nguyên tắc và sự phá vỡ nguyên tắc của Yasujiro Ozu.

Nguyên tắc và sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim Early Summer của Yasujiro Ozu.


Điện ảnh với tư cách là một môn nghệ thuật như bao môn nghệ thuật khác, đều có quá trình ra đời, phát triển. Trải qua những biến đổi trong lịch sử, điện ảnh sẽ tự hình thành cho mình những nguyên tắc nhất định. Và dường như tất cả mọi quá trình hình thành và phát triển đều chịu tác động bởi quy luật “phủ định của phủ định”, những quy tắc đã được hình thành chi phối sự phát triển của điện ảnh trong một giai đoạn lịch sử nào đó, và sẽ đến lúc, những nguyên tắc ấy sẽ trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển đi lên không ngừng của điện ảnh, tất yếu xuất hiện sự phá vỡ nguyên tắc. Đó là một tất yếu trong quá trình phát triển của nghệ thuật nói chung và của điện ảnh nói riêng. 

Dựng phim – với tư cách là một kĩ thuật điện ảnh quan trọng, luôn bao hàm trong nó những nguyên tắc và sự phá vỡ nguyên tắc. Những “nguyên tắc” được duy trì làm nên nét đặc trưng của điện ảnh; sự “phá vỡ” nguyên tắc góp phần làm nên nét đặc trưng trong phong cách làm phim của từng đạo diễn. Một trong những yếu tố làm nên tên tuổi của Yasujiro Ozu chính là sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp trong nghệ thuật dựng phim nói chung mà sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian là một ví dụ điển hình. Sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim của Ozu được thể hiện ở hầu hết tất cả những phim do ông đạo diễn mà Early Summerchỉ là một ví dụ minh họa.

Nói một cách dễ hiểu nhất, dựng phim là sự phối hợp của một cảnh quay này với một cảnh quay tiếp theo. Với những cảnh phim đã quay, đạo diễn có thể lựa chọn nhiều phương án cho việc dựng phim: dựng nối tiếp, dựng song song...Vào khoảng 1900 -1910, khi các nhà làm phim bắt đầu sử dụng việc dựng phim, họ tìm cách bố trí các cảnh quay của họ như thế nào để kể được một câu chuyện một cách mạch lạc và rõ ràng. Như vậy, việc dựng phim được hỗ trợ bằng nhiều chiến lược đặc trưng của kĩ thuật quay phim và dàn cảnh được sử dụng để đảm bảo sự nối tiếp của kể chuyện. Mục đích cơ bản của hệ thống nối tiếp là tạo ra một dòng chảy êm thuận từ cảnh quay này đến cảnh quay khác. Vì phong cánh dựng nối tiếp tìm cách trình bày một câu chuyện, tuy nhiên chính là thông qua việc xử lý không gian và thời gian mà việc dựng phim phát triển được sự nối tiếp của kể chuyện.


Như vậy, nguyên tắc nối tiếp không gian chỉ là một khía cạnh của nguyên tắc nối tiếp trong nghệ thuật dựng phim mà ở đây người viết đã tập trung vào để thông qua đó làm sáng rõ những “phá cách” của Ozu trong kĩ thuật dựng phim.


Theo David Bordwell và Kristin Thompson, trong phong cách nối tiếp, không gian của một cảnh quay được xây dựng dọc theo trục hành động, tuyến trung tâm hoặc tuyến 180 độ. Trục hành động xác định khu vực 180 độ để đặt camera . Nhà làm phim phải tính toán quay và dựng các cảnh như thế nào để đảm bảo trọng tuyến trung tâm và việc dựng cảnh sẽ được thao tác để tạo ra và lập lại không gian 180 độ. Phương pháp 180 độ đảm bảo sự nhất quán về vị trí tương đối trong khuôn hình, đảm bảo hướng nhìn, đảm bảo hành động nhất quán. Phương pháp này vạch ra không gian rõ ràng vì thế người xem luôn biết các nhân vật ở đâu trong mối tương quan giữa người này với người khác và dựng cảnh, đặc biệt là trong mối tương quan với hành động của câu chuyện. Chính vì thế, nguyên tắc nối tiếp không gian mang lại dòng chảy êm thuận giữa các cảnh quay trong toàn bộ phim. Như vậy nghĩa là, sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp trong không gian thực chất là việc vi phạm phương pháp 180 độ. Vị trí tương đối trong khuôn hình, hướng nhìn, hành động của nhân vật không có sự nhất quán. Máy quay camera không phải lúc nào cũng đặt cùng phía với trục hành động. Chính những sự “bất thường” này làm cho người xem bối rối, khó hiểu và điều đó đã mang lại những hiệu quả tự sự đặc biệt, góp phần hình thành nên dấu ấn cá nhân của người đạo diễn.

Ozu là một trong những nhà làm phim phi Hollywood, đã phát triển hàng loạt những cách tiếp cận khắt khe để tạo ra những bộ phim hoàn toàn khác biệt so với các bộ phim kinh điển. Thay vì phải tạo ra những sự kiện đối thoại và tuân theo những nguyên tắc cơ bản, Ozu đã làm khác đi. Cuối cùng, cấu trúc về không gian và thời gian trong phim của ông đã tạo ra những điều hết sức thú vị.

Early Summer kể lại mối quan hệ giữa các thành viên trong một gia đình truyền thống Nhật xung quanh sự việc Noriko lấy chồng. Mối quan hệ đó phản ánh mâu thuẫn giữa các thành viên, trong gia đình: những người lớn tuổi như cha mẹ, anh trai Noriko thì quay về với truyền thống, khó chấp nhận và vô cùng lo lắng trước quyết định kết hôn của cô với một người đàn ông lớn tuổi, đã có gia đình và đang sống với mẹ già, một đứa con nhỏ. Nhưng Noriko thì lại kiên quyết thực hiện quyết định của mình, kết hôn với người đàn ông mình yêu rồi rời quê hương lên sống ở một nơi xa xôi. Bộ phim phản ánh những mô típ đề tài quen thuộc trong phim của Ozu và cũng là một trong những ví dụ minh họa điển hình cho sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp trong nghệ thuật dựng phim của Ozu.

Thông thường, theo nguyên tắc dựng phim của Hollywood, không gian được dựng nối tiếp giữa các cảnh quay và nó cho ta biết vị trí chính xác của các nhân vật trogn không gian. Theo phương pháp 180 độ, không gian được thiết lập tạo nên một cấu trúc vô cùng chặt chẽ. Mỗi cảnh quay, đều cho biết vị trí của nhân vật trong không gian. Nhưng điều này khác hẳn với phim của Ozu. Thay vì phương pháp nối tiếp không gian thông thường như việc làm ánh sang mờ dần…Ozu đã sử dụng hàng loạt các cảnh quay chuyển tiếp riêng biệt liên quan đến việc cắt cảnh, dựng phim. Các cảnh chuyển tiếp này thường thể hiện những không gian không liên quan trực tiếp đến các cảnh phim – nơi xảy ra những sự việc, sự kiện chính của phim và có sự hiện diện của các nhân vật. Các không gian này thường chỉ gần những nơi quay phim, gần những nơi xảy ra sự kiện chính của các cảnh quay. Chẳng hạn như ngay đầu bộ phim, cảnh đầu tiên là toàn cảnh bờ biển trải rộng tít tắp và một con chó chạy lon ton trên bờ cát. Cảnh thứ hai là cảnh khung cửa sổ nhìn ra vườn, cảnh thứ ba là cảnh hành lang ngôi nhà, cảnh thứ tư là cảnh bố Noriko ngồi trên sàn nhà, cảnh thứ 5 là cảnh Noriko cùng đứa cháu ngồi trên bàn ăn sáng và hậu cảnh là hình ảnh người anh trai đang chuẩn bị trang phục để đi làm. Như thế, để đưa khán giả tiếp cận với cảnh quay chính, Ozu đã cắt cảnh 4 lần với những không gian không phải là nơi trực tiếp xảy ra cảnh quay chính. Những không gian này tuy chẳng phải nơi diễn ra những cảnh quay chính, không có nhân vật, không có đối thoại xuất hiện nhưng lại có ý nghĩa tự sự rất lớn. Chỉ thông qua những cảnh quay như thế, khán giả biết được ngôi nhà của Noriko nằm ở đâu (ở vùng biển), ngôi nhà trông ra một vườn cây rất rộng, hàng lang vào nhà trải rộng và có nhiều lồng chim…Những cảnh không gian ấy nói lên bối cảnh xảy ra câu chuyện phim là một miền quê vùng biển, yên ả và thanh bình. Chính trong sự yên ả và thanh bình ấy, những mạch ngầm sục sôi đang chuẩn bị diễn ra.

Hầu hết các bộ phim của Ozu đều vi phạm một cách “táo bạo” nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim. Sự phá vỡ nguyên tắc này được thể hiện ở sự vi phạm phương pháp 180 độ và được biểu hiện ra ở ba khía cạnh: vị trí tương đối trong khuôn hình, hướng nhìn, hướng hành động của nhân vật. Điều này được thể hiện rõ nét trong bộ phim Early Summer.


Thứ nhất: về vị trí tương đối của khuôn hình.

Phương pháp 180 độ đảm bảo rằng, các vị trí tương đối trong khuôn hình luôn nhất quán trong toàn bộ phim. Tức là khi camere quay từ các vị trí khác nhau thì các nhân vật vẫn cùng các vị trí tương ứng của mỗi người trong khuôn hình. Chẳng hạn như trên khuôn hình có ba nhân vật đang đứng thẳng hàng với nhau, nhân vật B đứng giữa nhân vật A và C. Vị trí của các nhân vật sẽ vẫn được giữ nguyên trong các cảnh quay khi chưa có sự di chuyển vị trí của nhân vật. Một khuôn hình trong đó nhân vật A hay C đứng giữa hai nhân vật còn lại sẽ là sự vi phạm quy tắc này. Và sự vi phạm này sẽ làm cho khán giả bối rối.

Early Summer của Ozu có sự vi phạm phương pháp 180 trên. Trong rất nhiều cảnh quay, Ozu đã cắt hẳn 180 độ qua trục không gian cảnh quay từ hướng đối diện. Điều đó làm cho diễn viên cũng như đồ vật trong cảnh quay thứ nhất ở bên phía tay phải nhưng trong cảnh quay thứ hai lại ở phía bên trái và ngược lại. Ví dụ như:

Ở phút thứ 4 của phim Early Summer, trong cảnh Noriko ngồi trên bàn ăn sáng: cảnh trước, cô ngồi đối diện theo hướng nhìn thẳng vào máy quay nhưng cảnh sau đó Noriko đã ngồi quay lưng lại ống kính.

Ở phút 41 của phim: cảnh hai bố con Mamyia ngồi nói chuyện với nhau: cảnh trước Mamyia ngồi bên phải và đối diện với ông bố; ông bố ngồi theo hướng nhìn thẳng vào ống kính. Nhưng cảnh sau đó, Mamyia đã ngồi bên trái ông bố và ông bố đã quay lưng lại ống kính.

Ở phút 44 của phim, cảnh Noriko và chị dâu ngồi nói chuyện với nhau: cảnh trước Noriko ngồi phía bên trái, quay lưng lại với ống kính, người chị ngồi phía bên phải đối diện với cô. Nhưng cảnh sau đó, Noriko đã ngồi theo hướng nhìn thẳng vào ống kính và ở bên phải, còn người chị lại ngồi quay lưng lại với ống kính.

Ở phút 69 của phim, cảnh mẹ Noriko và chị dâu Noriko ngồi cùng hướng với nhau theo chiều từ phải sang trái nhưng cảnh sau đó cả hai người lại ngồi theo chiều ngược lại, nhìn từ trái sang phải.

Ở phút 83: cảnh bố mẹ Noriko ngồi buồn bã khi biết tin Noriko quyết định kết hôn với Yabe – người đã có một con. Cảnh trước cả bố mẹ Noriko ngồi cùng hướng theo chiều từ phải sang trái. Cảnh sau đó, mẹ Noriko ngồi theo hướng nhìn từ trái sang phải. Cảnh quay tiếp theo, bố Noriko ngồi theo hướng nhìn từ phải sang trái. Cảnh sau đó, mẹ Noriko ngồi nhìn theo hướng nhìn từ trái sang phải. Cảnh tiếp sau đó, cảnh cả bố và mẹ Noriko đã lại ngồi theo hướng nhìn từ trái sang phải.

Sự vi phạm phương pháp 180 độ như trên làm cho mối nối giữa các cảnh quay trở nên rõ nét, không được êm thuận. Với một khán giả thông thường nhất, dù không gọi tên được đó là sự vi phạm nguyên tắc nối tiếp không gian thì họ cũng nhận ra được điều bất thường từ những mối nối đó. Sự vi phạm nguyên tắc nối tiếp không gian như vậy làm cho vị trí tương đối trong khuôn hình không nhất quán, vị trí tương ướng của nhân vật trong khuôn hình không được duy trì trong các cảnh quay. Điều đó phần nào gợi lên sự trúc trắc, không đồng nhất trong quan điểm giữa các nhân vật. Đặc biệt sự vi phạm nguyên tắc này ở cảnh quay phút 83 của phim, nó càng tô đậm thêm sự buồn bã, lo lắng của bố mẹ trước quyết định của Noriko và nhấn mạnh sự cô đơn của bố mẹ khi con gái mình sắp đi lấy chồng.


Thứ hai: về hướng nhìn của nhân vật.

Phương pháp 180 độ được duy trì đảm bảo hướng nhìn của nhân vật luôn nhất quán. Chẳng hạn một khuôn hình 1 thể hiện hai nhân vật A và B đang nói chuyện với nhau. Khuôn hình 2 thể hiện hướng nhìn của A từ trái sang phải và khuôn hình 3 thể hiện hướng nhìn của nhân vật B từ phải sang trái. Nếu khuôn hình 3 thể hiện hướng nhìn của nhân vật B cùng chiều với nhân vật A, tức là từ trái sang phải thì sẽ làm cho hướng nhìn của nhân vật không nhất quán, tức vi phạm phương pháp 180 độ. Hiện tượng này xảy ra rất nhiều trong các cảnh quay của phim Early Summer.Ví dụ:

Ở phút 27 của phim, cảnh Noriko và 2 người phụ nữ khác đang ngồi nói chuyện trong phòng. Cảnh quay thứ nhất quay toàn cảnh ba người đang ngồi nói chuyện cùng với nhau. Cảnh quay thứ hai, thứ ba và thứ tư lần lượt quay từng nhân vật một và các nhân vật đều nhìn theo một hướng từ phải sang trái.

Ở phút 44, cảnh Noriko và chị dâu ngồi nói chuyện với nhau. Cảnh quay trước quay toàn cảnh hai chị em đang ngồi trong phòng. Những cảnh kế tiếp sau đó quay từng người một và cả hai chị em đều nhìn theo hướng từ phải sang trái.

Ở phút thứ 49, Tami và mẹ Noriko ngồi nói chuyện với nhau. Cảnh trước quay toàn cảnh hai người đang ngồi đối diện với nhau. Những cảnh sau đó quay từng nhân vật một nhưng cả hai nhân vật đều nhìn theo một hướng từ trái sang phải.

Ở phút 57, cảnh Noriko và người bạn gái ngồi nói chuyện với nhau. Cảnh thứ nhất có sự hiện diện của cả hai người, cả hai ngồi cùng hướng và nhìn từ phải sang trái. Cảnh kế tiếp, Noriko nhìn từ trái sang phải. Cảnh liền kề, người bạn gái nhìn từ phải sang trái. Tiếp đó, lại cảnh Noriko ngồi nhìn từ trái sang phải. Và sau đó là cảnh hai người vẫn ngồi cùng phía theo chiều nhìn từ trái sang phải.

Ở phút 112, cảnh hai chị em Noriko ngồi trên đồi cát nói chuyện. Cảnh trước quay cả hai chị em cùng ngồi nói chuyện. Các cảnh sau đó quay từng nhân vật một và hướng nhìn của các nhân vật đều theo chiều từ phải sang trái. 

Ở phút 120, cảnh cả nhà ngồi lại cùng nhau sau bữa cơm tối, nói chuyện và dặn dò Noriko khi Noriko sắp lấy chồng và chuyển đến một nơi xa xôi sống. Cảnh trước quay toàn cảnh mọi người ngồi quây quần bên nhau. Những cảnh sau đó, từng nhân vật xuất hiện độc chiếm khuôn hình và các nhân vật đều nhìn theo hướng từ trái sang phải.

Như vậy, nguyên tắc nối tiếp không gian của Hollywood rõ ràng bị phá vỡ. Nguyên tắc ấy chỉ ra rằng, các nhân vật đang đối thoại với nhau phải nhìn cùng một hướng. Sự vi phạm nguyên tắc này của Ozu làm cho hướng nhìn của nhân vật không nhất quán. Dường như các nhân vật ấy không nói chuyện với nhau dù thực chất các nhân vật đó đang ngồi nói chuyện với nhau. Sự vi phạm này tạo ra sự không êm thuận giữa các mối nối cảnh quay. Điều đó phải ánh những bất thường, những vết rạn trong mối quan hệ giữa các nhân vật và cả những bất trắc trong cuộc sống. Điều đó làm cho hầu hết những phim của Ozu, ngay cả những phim diễn ra ở những bối cảnh rất bình yên, tĩnh lặng nhưng khán giả vẫn cảm nhận được những bất trắc, những vết rạn nứt của cuộc sống mà chúng ta đang bị cuốn trôi đi đến mức độ thờ ơ, dửng dưng bởi cứ ngỡ rằng tất cả đã hoàn hảo, chẳng có gì để nói. 

Trong rất nhiều cảnh quay khác, toàn cảnh thể hiện các nhân vật đang đối thoại với nhau nhưng khi quay từng nhân vật riêng rẽ, chúng ta lại thấy hiện tượng các nhân vật nhìn trực tiếp vào ống kính để nói. Điều này được thể hiện rõ nét qua những cảnh đối thoại ở những phút 52, phút 68, phút 82, phút 94. Việc để cho nhân vật nhìn thẳng vào ống kính để đối thoại đã mở rộng đối tượng đối thoại của nhân vật (không chỉ có nhân vật trong phim mà còn đưa tạo điều kiện cho khán giả tham gia nhiều hơn vào bộ phim). Điều đó càng làm tăng tính đối thoại trong các cảnh quay và mở rộng thêm ý nghĩa của phim, phạm vi thông tin của phim mang lại.

Như vậy, với những phương pháp nghệ thuật mang những đặc trưng riêng, những tình huống đối thoại được thực hiện bằng những cảnh quay lặp đi lặp lại đôi khi cắt 180 độ so với trục quay, làm cho hình cảnh các nhân vật đối thoại trong những cảnh riêng rẽ và liên tiếp thay vì phải tạo cảm giác là họ đang nhìn vào nhau để nói chuyện hay nhìn cùng vào một sự vật thì Ozu lại để cho các nhân vật nhìn cùng một hướng, như vậy đánh lừa cảm giác là hai nhân vật ấy không nhìn vào nhau. Chính những nét đặc trưng riêng này đã góp phần làm thành đặc trưng phong cách cuả Ozu.

Thứ ba: về hướng hành động.

Phương pháp 180 được sử dụng nhằm duy trì sự nhất quán trong hướng hành động của nhân vật. Chẳng hạn khuôn hình 1, nhân vật A đi từ trái sang phải. Hướng chuyển động của nhân vật từ trái sang phải làm thành trục hành động. Khuôn hình 2, nhân vật A vẫn phải đi theo hướng từ trái sang phải, tức duy trì hướng hành động của nhân vật. Nhưng khi một cảnh quay vượt qua trục đó, tức một cảnh quay từ phía bên kia làm cho nhân vật A trong khuôn hình 2 thay vì đi từ trái sang phải lại đi từ phải sang trái. Một cắt dựng không đảm bảo sự nhất quán trong hành động như vậy đã vi phạm phương pháp 180 độ. Sự vi phạm này sẽ làm khán giả bối rối, mất phương hướng.

Sự vi phạm phương pháp 180 độ làm cho hướng hành động của nhân vật trong rất nhiều cảnh quay của Early Summer không nhất quán. Trong rất nhiều cảnh quay, ở cảnh quay trước nhân vật đi từ phải sang trái. Hướng từ phải sang trái làm thành hướng hành động hay trục hành động. Nhưng cảnh quay kế ngay đó, nhân vật lại vào hình theo hướng từ bên trái sang bên phải (trước khi nhân vật xuất hiện ở cảnh quay sau lại thường là một không gian xuất hiện trước và điều đó làm cho khán giả mong đợi là nhân vật sẽ đi từ bên phải vào nhưng sự xuất hiện đột ngột của nhân vật từ phía bên trái đi vào làm khán giả bất ngờ) Ví dụ các cảnh quay như:

Ở phút thứ 4: cuối cảnh trước Isamu đi theo hướng từ phải sang trái khuôn hình nhưng cảnh sau đó Isamu lại đi vào từ bên phải của khuôn hình. 

Ở phút thứ 7: Cảnh trước Noriko đi từ phải sang trái rẽ lên cầu thang. Cảnh liền sau đó, một không gian căn phòng xuất hiện và Noriko đi vào khuôn hình theo chiều từ bên phải.

Ở phút thứ 19, Noriko đi theo chiều từ trái sang phải mang đồ uống cho bố và chú. Cảnh sau xuất hiện không gian căn phòng nơi bố Noriko và ông chú đang ngồi nói chuyện, và Noriko đột ngột đi từ phải sang trái. Cảnh kế theo, Noriko đi ra, cô lại đi từ trái sang phải. Và cảnh sau đó cô lại vào hình theo chiều từ trái sang phải.

Ở phút 44, Noriko về nhà. Cảnh trước cô đi theo chiều từ trái sang phải nhưng cảnh sau cô lại đi theo chiều từ phải sang trái.

Ở phút 55, cảnh trước Noriko và người bạn đi lên phòng cô và đi theo chiều từ trái sang phải. Nhưng cảnh sau đó, hai người lại đang đi theo chiều từ phải sang trái.

Ở phút 97, cảnh trước Noriko và người bạn bước lên cầu thang và đi theo chiều từ trái sang phải nhưng cảnh sau, họ đã bước hết cầu thang và đi theo chiều từ phải sang trái.

Ở phút 121, Noriko chạy lên cầu thang theo chiều từ trái sang phải nhưng cảnh sau cô lại chạy từ phải sang trái.

Những cảnh quay như trên làm cho hướng hành động của nhân vật không nhất quán. Khán giả nhiều lúc cảm thấy như nhân vật vừa đi theo chiều từ A đến B ở cảnh quay trước nhưng ở cảnh quay sau nhân vật lại đi ngược trở lại theo chiều ngược lại. Điều này làm cho khán giả để theo dõi phim phải chú ý đến các đồ vật trong không gian để định vị vị trí của nhân vật có phải đã đến một không gian mới hay là nhân vật lộn trở lại không gian ban đầu.

Ngoài cách dựng như trên làm hướng hành động của nhân vật không nhất quán, Ozu dựng những cảnh quay liên tiếp làm phá tuyến hành động trung tâm. Cảnh trước nhân vật A vắng bong nhưng đột ngột xuất hiện ở cảnh sau và nhân vật được theo sát bởi camera, làm thành một trục hành động mới.

Tuy có rất nhiều những bước phát triển làm phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim nhưng Early Summer vẫn có những cú dựng tuân thủ mẫu mực nguyên tắc này. Điều đó làm cho bộ phim, sau những cú dựng làm cho khán giả bối rối khó hiểu cũng được “trấn an” trở lại. Ví dụ như những cú dựng theo điểm nhìn tương hợp:

Ở phút thứ 5, cảnh trước mẹ Noriko từ từ ngẩng đầu nhìn lên từ bên trái, cảnh sau là cảnh cái cột gắn con chong chóng và phía dưới là hình những con cá làm bằng vải được gắn trên cột. 

Ở phút thứ 60, cảnh trước bố mẹ Noriko đang nhìn lên bầu trời, cảnh sau xuất hiện quả bong bay đang bay trên bầu trời.

Ngoài những cú dựng đảm bảo nguyên tắc nối tiếp không gian nhờ những điểm nhìn tương hợp, trong Early Summer còn có rất nhiều những cú dựng trong đó đảm bảo vị trí tương đối trong khuôn hình, hướng nhìn và hướng hành động của nhân vật nhất quán từ cảnh quay trước với cảnh quay sau. Chính những điều đó làm cho phim của Ozu tuy có những cách tân đặc biệt nhưng vẫn được khán giả dễ dàng đón nhận.

Nói tóm lại, nguyên tắc và sự phá vỡ nguyên tắc nối tiếp không gian trong nghệ thuật dựng phim được thể hiện trong hầu hết những phim của Ozu mà Early Summer chỉ là một ví dụ minh họa. Chính sự phá vỡ nguyên tắc này, kết hợp cùng với nhịp điệu rề rà chậm rãi trong phim đã làm cho khán giả được nhìn ngắm những gì diễn ra trước mắt lâu hơn, ấn tượng hơn, dễ đọng lại trong tâm trí khán giả hơn và để lại dấu ấn lâu bền hơn. Đặc biệt, sự phá vỡ nguyên tắc ấy đã khắc sâu cho chúng ta thấy những bất trắc, những vết rạn nứt của cuộc sống mà chúng ta đang bị cuốn trôi đi đến mức độ thờ ơ, dửng dưng bởi cứ ngỡ rằng tất cả đã hoàn hảo, chẳng có gì để nói.

Kiến thức cơ bản về Quay phim trên máy ảnh DSLR







Có thể nói những năm gần đây là những năm “bùng nổ” của ngành công nghiệp video với sự cách mạng của dòng máy DSLR. Với dòng máy này, cả dân chuyên nghiệp và người tiêu dùng điều có thể sở hữu, điều mà họ khó có thể thực hiện với một chiếc camera phức tạp và đắc đỏ giá $30,000 trước đây. Sau đây là vài điều căn bản bạn cần biết khi quyết định mua máy ảnh DSLRdùng cho việc quay phim.
Framerates


Lượng hình ảnh mà camera có thể bắt được trong từng giây (viết tắt là fps: frames persecond)
60 fps: tốc độ bắt hình cao này được dùng nếu bạn muốn bắt chậm hay chuyển sang tiêu chuẩn NTSC để phát sóng, hay trình chiếu trên tivi HD.
46 fps: tốc độ bắt hình cao này được dùng nếu bạn muốn bắt ảnh chậm hay chuyển sang hệ tiêu chuẩn PAL, hay cho một số tivi HD.
30 fps: tiêu chuẩn NTSC
25 fps: tiêu chuẩn PAL
24 fps: Cinema framerate


NTSC va PAL là hai chuẩn dùng để phát sóng được sử dụng trên thế giới.


Tại sao phải là tối thiểu 24 hình/giây


Trước đây người ta đã nhận thấy rằng ở mức thấp nhất có thể mà một bộ phim khi trình chiếu qua projector không bị rời rạt, chấp vá là 24 hình xuất hiện trên 1 giây (projector có thể bị kẹt phim khi trình chiếu ảnh ở tốc độ cao hơn). Đây được xem là một tiêu chuẩn phải có để đảm bảo cho việc thực hiện một bộ phim.
Video resolutions


1080p: khung hình cỡ1920x1080px. Độ phân giải cao nhất có thể đạt được với máy camera DSLR, hay còn được biết đến với tên True-HD hay Full-HD.


720p: khung hình cỡ 1280x720pz, vẫn có thể thưc hiện bằng máy DSLRS nhưng chất lượng thấp hơn, đây cũng được xem là chuẩn HD.


480p: khung hình cỡ 640x480px. Không được xem là độ phân giải cao, mà chỉ là “độ phân giải được nâng cấp” (enhanced definition).
Hiệu ứng Rolling Shutter


Hiệu ứng này đuợc tạo ra bởi bộ phận cảm ứng CMOS trong máy DSLR. Trái ngược với CCD, CMOS có thể bắt ảnh bằng cách thu lại những thông tin từ bộ phận cảm ứng từ phần trên trước, rồi sau đó nhận thông tin từ phần cuối. Điều này có nghĩa là những vật thể chuyển động nhanh và whip pans trong khung hình sẽ được thể hiện phần trên trước, rồi đến phần dưới sau. Nguyên nhân này thường làm cho bức ảnh bị méo. Và khi khung hình bị rung thì nó sẽ hiện ra một hiệu ứng “Jello” rất rõ ràng. Đây có thể là điểm yếu lớn nhất của máy camera DSLR.


Bạn có thể hạn chế hiệu ứng này bằng cách dùng khung hình chậm hơn, che khuyết điểm hiệu quả bằng cách dùng motion blur.
Kích cỡ bộ phận cảm ứng


Bộ phận cảm ứng của camera là một đĩa mỏng và nhạy bắt sáng thông qua lens ngay khi màn trập được mở ra. Bộ phận cảm ứng càng lớn, bạn càng đạt được một bức hình sắc nét hơn.





Tuy nhiên, cần lưu ý rằng bộ phận cảm biến toàn khung phải đi kèm với ống kính toàn khung. Nếu bạn dùng ống kính cỡ APS-C với cảm biến toàn khung thì kết quả sẽ cho ra một bức ảnh với chất lượng rất tồi.






Những bộ phận cảm biến khác nhau sẽ có những tiêu chuẩn về ống kính khác nhau để dùng chung. Ống kính loại EF được dùng cho máy Camera Full Frame Canon, trong khi ống kính loại EF-S được dùng cho camera Cropped Sensor APS-C. Vấn đề này liên quan đến hệ số cúp và bộ phận cảm ứng. Một ống kính EF trên một bộ phận cảm ứng APS-C sẽ được tăng lên nhiều lần bởi hệ số cúp.




Crop Factors: (hệ số cúp)




35mm/Full Frame = 1.0 (50mm EF lens will appear as 50mm)


APS-C = 1.62 (50mm EF lens will appear as 81mm)


Nikon DX = 1.52


APS-H = 1.26
ISO


ISO là một bộ phận nhạy sáng của camera, ISO càng cao thì độ nhạy càng cao. Bạn có thể chụp với tốc độ màn trập và lỗ ống kính nhỏ hơn, nhưng với ISO cao, bạn có thể nhận thấy sự tăng rõ rệt các hạt trong khung hình. Mỗi camera giải quyết với vấn đề ảnh bị hạt khác nhau, một số máy chụp sẽ ít hạt hơn với chỉ số ISO cao hơn các loại camera khác. (5D Mark II, và đặc biệt là 1D Mark IV được biết đến với chất lượng ảnh ít hạt với ISO cao)


Một số đời máy Camera
Canon 1D Mark IV





Dòng máy camera mới được công bố nổi bật về chất lượng quay phim trong ánh sáng yếu với độ nhạy sáng ISO cao.






Hiện vẫn chưa xuất hiện ngoài thị trường.




Giá bán lẻ: $5000 U.S




FPS/Resolutions:


1080: 30p (29.97); 24p (23.976) / 25p;


720: 60p (59.94) / 50p;






Kích thước bộ cảm ứng: APS-H (đã từng xuất hiện nhưng không thông dụng cho dến khi xuất hiện dòng máy này)




ISO: 100-12800 (1600 là chỉ số dễ sử dụng nhất)





Canon 5D Mark II





Đây là dòng máy HD-DSLR đầu tiên đem đến cho người tiêu dùng những trải nghiệm tuyệt vời mà máy DSLR mang lại. Tuy nhiên nó còn những hạn chế như không thể kiểm soát hoàn toàn được các thao tác lúc sử dụng máy, hay không thực hiện được “film look” vì nó không thể quay với chuẩn 24p.


Giá bán lẻ: $2500 U.S.


FPS/Resolutions:


1080: 30p (29.97); *24p (23.976) / 25p;


720: *60p (59.94) / *50p;


Kích thước bộ cảm ứng: toàn màn hình (yêu cầu EF lenses và KHÔNG EF-S)


ISO: 100-6400 (có thể lên tới 12800)
Canon 7D









Đây là sản phẩm đầu tiên với khả năng kiểm soát thao tác hoàn chỉnh và cung cấp chuẩn 24p. Vì thế nó được dùng rộng rãi hơn mẫu 5DMKII.


Giá bán lẻ: $1700 U.S.





FPS/Resolutions:






1080: 30p (29.97); 24p (23.976) / 25p;




720: 60p (59.94) / 50p;




Kích thước bộ cảm ứng: APS-C (EF-S Lens)


ISO: 100-12800
Canon 500D/Tl1











(được biết đến với tên Tl1 ở USA và 500D trên thế giới)


Dòng máy nhỏ gọn này được cho ra mắt khoảng giữa thời gian dòng máy 5D Mark II và dòng máy 7D. Điểm gây thất vọng của 500D là không cung cấp framerate 20fps cho chuẩn 1080p HD, và khả năng kiểm soát thao tác hoàn chỉnh. Tất nhiên, với những hạn chế đó nên máy chỉ được bán với giá 800$ và thích hợp cho dân không chuyên.


Giá bán lẻ: $800.


FPS/Resolutions:


1080: 20p (said lack the processing power to achieve higher framerates)


720: 30p


480: 30p


Kích thước bộ cảm ứng: APS-C


ISO: 100-3200 (ISO expansion: 6400, 12800) ISO 1600 là mức cao nhất có thể đạt được khi quay phim.
Panasonic Lumix GH1





Giá bán lẻ: $1,500.


FPS/Resolutions:


1080: 24p


720: 60p


Kích thước bộ cảm ứng: 4/3


ISO: 100-3200
Nikon D5000





Giá bán lẻ: $630.


FPS/Resolutions:


720: 24p


420: 24p


Kích thước bộ cảm ứng: DX (lớn hơn một ít so với kích cỡ bộ cảm ứng của Canon’s APS-C)


ISO: 100-6400
Nikon D90









Giá bán lẻ: $900 U.S






FPS/Resolutions:




720: 24p


420: 24p




Kích thước bộ cảm ứng: DX (lớn hơn một ít so với kích cỡ bộ cảm ứng của Canon’s APS-C)


ISO: 100-6400RGB.vn / Dịch bởi Phương Trần

Làm phim bằng máy ảnh

Cuối tháng 3/2012, bộ phim Biệt kích ngầm (Act of Valor) của Hollywood khởi chiếu trên tất cả các hệ thống rạp của Việt Nam. Cuối tháng 5 tới, bộ phim Việt Nam Dành cho tháng sáu cũng chính thức ra mắt khán giả trên các rạp toàn quốc. Điểm chung của hai bộ phim này là đều được quay bằng máy ảnh 5D Mark II Full Frame HD với kích thước chuẩn tương đương phim nhựa 35mm với chi phí rất rẻ. Dùng máy ảnh làm phim, một phân khúc cho thể loại phim ngắn, truyền hình, TVC quảng cáo…sau khi Canon khởi động bằng bộ phim Đi tìm Sonny năm 2009 đã mang một sứ mệnh khác. Ngay cả nhà sản xuất Canon cũng nghĩ vậy, máy ảnh EOS-1D X và mới nhất là EOS-1D C với độ phân giải HD 1080p, chuẩn 4K chiếu rạp ở tốc độ tối đa 64 khung hình/giây tiếp tục gửi thông điệp tới các nhà làm phim chuyên nghiệp và cảnh báo với hãng sản xuất RED Camera về giá cả cũng như chất lượng…

Sôi động làm phim bằng máy ảnh

Trước khi những chiếc máy ảnh có chức năng quay phim ra đời, điện ảnh ở Việt Nam là một thứ gì đó ngoài tầm tay với. Rào cản về thiết bị đã ngăn cản những người yêu điện ảnh được thể hiện ý tưởng của mình. Phim ảnh khu biệt trong những hãng phim nhà nước, các nhà sản xuất tư nhân và những nhà làm phim độc lập tìm kiếm hỗ trợ từ các dự án, các nhà đầu tư. Ngay cả truyền hình, những clip ca nhạc, TVC quảng cáo với những chiếc máy quay KTS chất lượng vừa phải cũng không phải ai cũng có thể sở hữu.


Cảnh làm phim bằng máy ảnh ở Việt Nam

Khi những chiếc máy ảnh du lịch gia đình nhỏ gọn ra đời với chức năng quay phim đã kích thích sự sáng tạo của những người trẻ yêu điện ảnh. Họ mày mò quay, dựng những clip ngắn rồi chia sẻ với nhau trên mạng. Tất nhiên, chất lượng hình ảnh từ những chiếc máy ảnh này chỉ mang tính chất giải trí, mày mò. Đầu năm 2008, chiếc máy ảnh DSLR Nikon D90 ra đời với chức năng quay phim với độ nét cao 1280 x 720 pixel. Tuy khả năng ghi hình còn nhiều hạn chế như thiếu âm thanh stereo, không có khe cắm micro, không được trang bị zoom điện - khả năng mà máy quay nào cũng có (mặc dù tốc độ khác nhau). D90 cũng chẳng mang màn hình xoay đa hướng, hay cả những tính năng, thiết lập cần thiết khác cho việc quay phim. Ưu điểm lớn nhất của chiếc máy quay DSLR này so với digicam là sử dụng được vô khối ống kính, kể cả những cái mà không mấy ai biết tới trong công nghệ phim nhựa và phim truyền hình.

Chỉ có vậy nhưng việc quay phim bằng Nikon D90 đã được bàn tán nhiều trên các diễn đàn yêu điện ảnh. Nắm bắt được thị hiếu, cuối năm 2008, hãng Canon tung ra mẫu máy ảnh mang tên EOS 5D Mark II. Đây được coi là mẫu máy ảnh đầu tiên có khả năng quay video Full HD 1080p (1.920 x 1080 pixel). Chính sự xuất hiện của 5D Mark II đã làm lu mờ hoàn toàn Nikon D90 với chuẩn phân giải 720p (1.280 x 720 pixel). Bên cạnh đó, EOS 5D Mark II vừa khít với một microphone có sẵn để thu âm đơn, có cả một hốc cắm để kết nối các microphone âm thanh nổi mở rộng. Video được quay ở định dạng Quicktime MOV sử dụng dạng nén MPEG-4 còn âm thanh thì được thu trên dòng PCM không nén. Phim được quay cho đến khi dung lượng file đạt tới 4GB, có thể tính bằng 12 phút quay ở Full HD, tốc độ 30fps.

Đồng thời, bộ phim Đi tìm Sonny với đoạn trailer tung lên mạng được quay hoàn toàn bằng máy ảnh EOS 5D Mark II đã khiến những người yêu thích phim ảnh trên thế giới thực sự quan tâm, trong đó có những người làm phim ở Việt Nam. Gần như sau đó, máy ảnh Canon EOS 5D Mark II và sau đó là mẫu máy 7D cũng của Canon thống trị phim ngắn ở Việt Nam. Trong tất cả các cuộc thi phim ngắn như Làm phim 48h, Chúng ta làm phim, các dự án phim Hà Nội, Anh yêu em, Sài Gòn, em yêu anh, 89,600km+…, Chuyện đời qua phim, Hiểu về trái tim, dự án Doclab, Tiệc phim Yxineff, phim tham dự phim ngắn Cánh diều của Hội điện ảnh….đa số đều dùng hai mẫu máy này để làm phim. Trong số đó, rất nhiều phim đã đoạt giải thưởng cao, đạt yêu cầu về chất lượng để tham dự các LHP ngắn trên thế giới cũng như trình chiếu trên hệ thống rạp MegaStar như The Safe, Canh ba ba, Cá chuối, Đường bi, Xe ôm, Chuyện tào lao…

Không chỉ phim ngắn, rất nhiều TVC quảng cáo, các chương trình truyền hình, Clip ca nhạc đều sử dụng hai mẫu máy này để quay do hình ảnh đạt chuẩn, xúc cảm (do độ nét mỏng), màu sắc hơn và mượt mà hơn (35 hình/1 giây) máy quay KTS bình thường như Clip ca nhạc Hồ Gươm sáng sớm(ca sỹ Hoàng Hải), Ước nguyện (ca sỹ Dương Cầm), Nếu như Anh đến (ca sỹ Văn Mai Hương)…; các live show như Không gian âm nhạc: Tùng Dương - Lê Cát Trọng Lý, Thanh Lam - Quốc Trung, Hà Trần, Thu Phương - Hà Anh Tuấn…các chương trình truyền hình như Sống đẹp, Hương vị cuộc sống….

Ngoài hai máy trên, hiện các máy Full Frame HD có thể kể đến trên thị trường hiện nay là Canon 1Ds, canon 60D, Nikon D3x, Nikon D700, Sony Alpha A900, Sony Alpha A850, Kodak DSC Pro SLR/c…


Cảnh trong phim Dành cho tháng 6

Quay phim bằng máy ảnh: Ưu và nhược

Đối với ngành công nghiệp điện ảnh, RED là sự lựa chọn hoàn hảo với hai lí do: chất lượng cao và giá thành chấp nhận được. RED EPIC cho phép quay phim với độ phân giải lên đến chuẩn 5K. Cái tên RED EPIC đã quá quen thuộc với các hãng sản xuất phim với mức giá khoảng 60.000 USD (tương đương 1,2 tỉ đồng). Yếu tố đầu tiên để người làm phim nhắm đến chiếc máy ảnh full frame HD để thay thế cho chiếc máy quay chính là chi phí thấp mà vẫn đạt chuẩn về hình ảnh. Với cảm biến lớn bằng cảm biến phim nhựa 35mm, chiếc máy ảnh còn cho ra hình ảnh màu sắc chân thực đầy cảm xúc.

Nếu mua một chiếc máy quay Canon EOS 5D Mark II với đầy đủ ống kính phục vụ việc quay phim giá thành rơi vào khoảng 200 triệu, tương đương 10.000USD trong khi đó số tiền này chỉ đủ để thuê máy quay phim chuyên nghiệp Red One trong vòng chưa đầy một tháng. Một chiếc máy ảnh nhỏ gọn cũng mang lại tính cơ động cao, linh hoạt với những không gian hẹp, thời gian setup máy nhanh hơn máy quay, không cần quá nhiều nhân lực và có thể xem ngay kết quả trên thẻ nhớ. Việc thay đổi được nhiều ống kính phù hợp cho từng cảnh quay cũng là một ưu điểm của việc quay phim bằng máy ảnh. Ngoài ra, điều này còn giúp chiếc máy ảnh quy được những thước phim có độ nét cao trong điều kiện ánh sáng yếu. Độ nét mỏng, tốc độ hình/1sec vừa là ưu điểm cho những hình ảnh mượt mà, mơ mộng nhưng cũng là yếu điểm của chiếc máy ảnh quay phim bởi rất khó bắt nét, thiếu độ sâu trường trong một số cảnh có ý đồ trong phim truyện.


Cảnh trong phim Like Crazy hoàn toàn quay bằng máy ảnh 5D Mark II

Nhược điểm của việc quay phim bằng máy ảnh ngoài không có độ chi tiết tố như các dòng máy RED hoặc phim 35mm, bắt nét kém khi quay vật thể chuyển động thì nó còn có nhiều hạn chế về frame rate (ví dụ Canon EOS 5D mark II chỉ tối đa 30 frame/sec, Canon 60D và 7D tối đa 60 frame/sec, trong khi máy quay có thể lên đến 150 frame/sec). Hình bị răng cưa (khi test thử với áo kẻ caro, kẻ nhỏ là lộ), tiếng thu kém, đôi khi vỡ. Ngoài ra, các phụ trợ cho việc quay phim bằng máy ảnh cũng không chuyên nghiệp. Máy không có room tự động như máy quay mà phải lấy nét bằng tay nên không được êm ái. Máy ảnh cũng chỉ cho quay phim tối đa là 5-12 phút (5D là 40-45 phút) thì tự tắt. Vì chất lượng hình ảnh nén quá lớn nên tốn kém, vất vả trong việc xử lý hậu kỳ nếu muốn đạt chất lượng chiếu rạp (Ví dụ như cùng một thẻ 4GB quay bằng máy quay Red chỉ được gần 1 phút hình với chuẩn 24h/sec, đạt độ phân giải 4K. Nhưng cùng mọi yếu tố đó, máy ảnh Canon quay được12 phút hình thì đương nhiên chất lượng hình ảnh sẽ bị giảm).

Những nhược đã được phân tích ra như vậy nhưng hầu hết đều có thể khắc phục được. Ngoài ra, với yêu cầu chất lượng hình ảnh và hậu kỳ không quá cao, chi phí giảm rất nhiều cộng với những hiệu quả màu sắc mang lại (So sánh 5D mark II với Panasonic P2 thì thấy chất lượng 5D hơn hẳn, màu sắc đậm hơn, xúc cảm hơn) thì việc quay phim bằng máy ảnh không còn quá xa lạ với công nghệ làm clip quảng cáo, ca nhạc, các chương trình truyền hình. Đạo diễn Triệu Quang Huy – giám đốc công ty Ninja film Producesions, sau khi học sản xuất và đạo diễn ở Mỹ về đã gây ấn tượng mạnh với những hình ảnh từ chiếc máy ảnh Canon 5D Mark II cho những clip ca nhạc như Nếu như anh đến (ca sỹ Văn Mai Hương), Hồ Gươm sáng sớm (ca sỹ Hoàng Hải). Triệu Quang Huy và công ty của mình cũng là đơn vị đầu tiên ở Việt Nam áp dụng thành công việc quay phim bằng máy ảnh vào Live show với những thành công được đánh giá rất cao như Không gian âm nhạc:Tùng Dương - Lê Cát Trọng Lý, Thanh Lam - Quốc Trung, Hà Trần, Thu Phương - Hà Anh Tuấn…

Có thể nói, ở phân khúc này, việc quay phim bằng máy ảnh là sự lựa chọn khá hoàn hảo, đáp ứng được nhu cầu, sự sáng tạo cũng như chi phí sản xuất được giảm thiểu rất nhiều.


Dùng máy ảnh cho dự án phim độc lập Alias Ruby Blade về Dong Timor

Có thay thế cho máy quay phim chuyên nghiệp?

Việc cùng máy ảnh làm phim trên thế giới không là điều quá xa lạ. Nó không chỉ được áp dụng cho phim ngắn, phim truyền hình, cho những bộ phim độc lập với kinh phí thấp và thời gian gần đây nó đã bắt đầu xuất hiện cả ở những phim bom tấn. Phần kết của bộ phim truyền hình House được tiết lộ quay bằng máy ảnh 5D Mark II, những bộ phim như The Last 3 Minutes, Iron Man 2, Captain America, Red Tails… cũng được sử dụng phương tiện truyền tải là những chiếc máy ảnh có chức năng quay phim.

Bộ phim độc lập Like Crazy của đạo diễn trẻ 28 tuổi Drake Doremus cũng là một tác phẩm hoàn toàn quay bằng máy ảnh Canon EOS 7D. Với kinh phí chỉ vỏn vẹn 400.000 USD, tác phẩm giành giải Phim hay nhất tại LHP độc lập Sundance và được hãng Paramount mua lại quyền phát hành với giá 4 triệu USD. Nếu ai đã từng xem bộ phim 127 Hours, bộ phim đoạt 6 đề cử Oscar 2011 của đạo diễn Danny Boyle mà mê hoặc với những cảnh quay đẹp kì vỹ trong phim thì hãy tin rằng, nhiều trong số đó được thu lại từ những chiếc máy ảnh có chức năng quay phim.

Liên tiếp các dự án phim nhờ cậy đến quay phim bằng máy ảnh để giảm thiểu chi phí mà vẫn đạt kết quả tốt. Ở thời điểm này, nếu ai quan tâm đến các dự án phim đều có thể thấy dòng chữ kêu gọi tài trợ của bộ phim Alias Ruby Blade của đạo dễn Alex Meillier về vấn đề nội chiến ở Đông Timor. Tháng 3 vừa qua, bộ phim Biệt kích ngầm (Act of Valor) với 85% hình ảnh được quay bằng máy ảnh 5D mark II và 7D cũng được khởi chiếu trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Shane Hurlbut – nhà quay phim của Biệt kích ngầm, đã thể hiện câu nói: “Tôi sẽ biến cái máy ảnh bé tý này thành máy quay chuyên nghiệp” khi cầm chiếc máy ảnh Canon 7D ngày ra mắt thành sự thực. Không chỉ làm tốt việc tạo ra hình ảnh đạt chuẩn, với việc dùng tới 6 máy quay trong phim, chế tạo thêm phụ trợ focus không dây cho máy quay đặt trên mũ nhân vật trong khi di chuyển đã tạo được nhiệu ứng nhìn cực kỳ chân thật, rất sáng tạo.

Không chỉ có phim truyện, phim tài liệu với những yếu tố chân thực lại rất phù hợp với yếu tổ nhỏ gọn linh hoạt của chiếc máy ảnh. Bộ phim Hell and back again, phim tài liệu về cuộc chiến Afghanistan, hoàn toàn quay bằng máy ảnh EOS, đã xuất sắc giành giải nhất trong kỳ liên hoan phim Sundance năm 2011. Ở giải Oscar năm 2012 đầu năm nay, Hell and back again tiếp tục lên ngôi với giải thưởng Phim tài liệu xuất sắc nhất.

Ở Việt Nam, rất nhiều nhà làm phim tài liệu cũng đã chọn làm phim bằng máy ảnh cho những thước phim của mình. Đạo diễn tài liệu Lê Hoài Phương hay Trịnh Quang Tùng là một ví dụ. Những hình ảnh đẹp lộng lẫy trong bộ phim đoạt giải Bông sen vàng Bướm, côn trùng cánh vẩy đều được đạo diễn Trịnh Quang Tùng thu lại bằng chiếc máy ảnh Canon EOS 550D. Anh từng tâm sự: “Nếu không có sự cơ động của chiếc máy ảnh này, chắc chắn tôi sẽ khó khăn hơn trong việc quay được những thước phim như thế”. Hiện, anh đang lên dự án cho một bộ phim tài liệu về vùng cao kéo dài khoảng 3 năm và chắc chắn chiếc máy ảnh có chức năng quay phim tiếp tục làm bạn đồng hành với anh.


Quay phim Nguyễn Hoàng đang ghi hình cho phim Dành cho tháng sáu

Ngoài tài liệu, nhiều bộ phim truyền hình ở Việt Nam cũng bắt đầu tiếp cận với những ảnh quay bằng máy ảnh như 50 tập Cuối đường băng (Công ty Trí Việt sản xuất) đang phát sóng trên HTV7. Trước đó, bộ phim chiếu rạp Em hiền như Ma Sơ cũng sử dụng nhiều cảnh quay bằng máy ảnh Canon EOS 1Ds. Một loạt bộ phim chiếu rạp đã và đang sản xuất cũng sử dụng máy ảnh để làm phim như Bẫy cấp 3 (hãng Coco Paris LLC), Ranh giới trắng đen (Công ty Vinacinema phối hợp với đối tác Indonesia).

Cuối tháng 5 này, bộ phim Việt Nam đầu tiên 100% quay bằng máy ảnh Canon EOS 5D Mark II cũng bắt đầu ra rạp là Dành cho tháng sáu của đạo diễn trẻ Nguyễn Hữu Tuấn. Giải thích cho lý do dùng máy ảnh quay phim, đạo diễn trẻ này lý giải: “Tôi cũng mất một khoảng thời gian khá dài để lựa chọn mình sẽ dùng loại máy gì khi chuẩn bị quay Dành cho Tháng sáu. Sau khi bàn kỹ với hai quay phim chính, chúng tôi quyết định chọn quay bằng máy ảnh Canon EOS 5D Mark II. Có hai lý do để tôi lựa chọn máy ảnh này. Thứ nhất là chi phí giảm đi rất nhiều. Thứ hai là bộ phim này là một phim thể thao nên máy quay sẽ rất tiện dụng nếu nhỏ gọn và thao tác nhanh, đồng thời tôi có thể sử dụng nhiều máy một lúc, nhiều nhất là 4 máy, để có thể ghi lại được các cảnh chơi bóng xảy ra ở tốc độ rất nhanh”.


Quay phim Biệt kích ngầm bằng máy ảnh Canon 5D Mark II

Nhìn sơ qua như vậy để thấy trào lưu làm phim bằng máy ảnh đã bắt đầu có sự quan tâm không chỉ giới trẻ mà cả ở những nhà làm phim chuyên nghiệp. Dù cần thêm một vài phụ trợ để đem lại hiệu quả, dù có nhiều nhược điểm nhưng nó vẫn là sự lựa chọn tuyệt vời cho việc giảm thiểu chi phí. Điều đáng lo ngại ở trào lưu này lại dành cho những bạn trẻ tiếp cận nó mà chưa qua trường lớp, căn bản. Việc “Canon làm hộ” khá nhiều khiến sự sáng tạo, cảm xúc của người quay phim bị thụ động.

Trước khi viết bài này, người viết cũng đã tham khảo ý kiến của một số nhà quay phim nhiều kinh nghiệm ở Việt Nam. Họ, đều nghi ngại, rụt rè và phản đối. Các nhà làm phim thế giới cũng vậy và nhà sản xuất Canon cũng nghĩ vậy. Sau khi thành công với phân khúc DSLR có chức năng quay phim Full HD thỏa mãn các nhà làm phim với chi phí thấp, Canon tiếp tục cho ra mắt trên thị trường chiếc máy ảnh EOS-1D X vào tháng 3/2012. Sự thỏa mãn của những người yêu làm phim bằng máy ảnh chưa kịp tắt thì canon tiếp tục đưa ra mẫu EOS-1D C ra mắt vào tháng 10 tới với khả năng quay phim với độ phân giải lên đến 4K (4096x2160) ở tốc độ 24 khung hình/giây mà không cần phải nén để giảm bớt dung lượng của video. EOS-1D C cũng có thể quay video độ phân giải HD 1080p ở tốc độ tối đa 64 khung hình/giây.

Canon cho biết EOS-1D chủ yếu nhắm đến khách hàng là các nhà đạo diễn và làm phim chuyên nghiệm của Hollywood, cũng như những nhà quay phim chuyên nghiệp. Điểm nổi bật của EOS-1D C so với các loại máy quay chuyên dụng đó là nhẹ nhàng và dễ di chuyển hơn và chỉ với mức giá là 15.000 USD dành riêng cho thân máy. Và trong cuộc chạy đua với những chiếc máy quay phim chuyên nghiệp của hãng RED Camera (với giá trung bình mỗi chiếc khoảng 60.000USD), Canon hướng tới những chiếc máy quay chất lượng tương đương và giá thành rẻ. C500 là mẫu mới nhất mà Canon trình làng với khả năng quay phim chuẩn 4K (4096x2160) ở tốc độ 60 khung hình/giây. Tuy nhiên, khi hạ độ phân giải của video xuống 4096x1080, C500 có thể quay ở tốc độ lên đến 120 khung hình/giây. Đây là chiếc máy dành cho nhà làm phim chuyên nghiệp với giá đưa ra là 30.000 USD.


Cuộc chạy đua, cạnh tranh công nghệ luôn có lợi cho người tiêu dùng. Và nhìn vào cuộc chạy đua đó có thể thấy trào lưu làm phim bằng máy ảnh (hay rõ hơn là giảm chi phí thông qua việc tận dụng máy ảnh) còn được tiếp tục với những hiệu ứng hình ảnh ngày càng tốt, càng nhiều ưu hơn khuyết. Vậy chiếc máy ảnh có thể thay thế được chiếc máy quay không? “Có lẽ là chẳng có chiếc máy nào thay thế chiếc máy nào mà là chúng sẽ kết hợp vào nhau, biến những ưu điểm riêng thành ưu điểm chung. Rất có thể tương lai, chúng ta sẽ có những chiếc máy bé như một chiếc điện thoại di động, nhẹ và gọn nhưng vẫn đầy đủ các chức năng của một máy Panavison, cho hình ảnh có độ phân giải và chi tiết cao như phim nhựa Kodak” – đó là câu trả lời của đạo diễn trẻ Nguyễn Hữu Tuấn. Còn quay phim Nguyễn Hoàng, thì cho rằng: “Tùy vào từng dự án, kinh phí sản xuất để tôi có sự lựa chọn cho phù hợp. Trong một mặt bằng chuẩn về hình ảnh thì thứ mà khán giả quan tâm chính là câu chuyện, là điều mà nhà làm phim muốn chuyển tải chứ không phải là quay bằng máy gì. Họ toàn toàn không biết và không quan tâm đến điều đó”.


Nhà quay phim Lý Thái Dũng:







Tôi không thích dùng máy ảnh để quay phim vì 1 lý do duy nhất:Máy ảnh được thiết kế ra là dùng để chụp ảnh, Máy quay sinh ra là để Quay phim. Việc sử dụng “tính năng thứ hai” của thiết bị luôn chỉ dành cho những trường hợp bất đắc dĩ, vì giá trị thứ 2 của thiết bị luôn không tốt bằng giá trị 1. Tôi đã dùng thử và đương nhiên nó kém xa những máy quay tôi đang sử dụng. Vì lợi thế duy nhất là giá thành rẻ nên nó dành cho những phim có kinh phí rẻ....điều này cũng nói lên giá trị của nó nằm ở đâu. Giá rẻ đương nhiên nó có rất nhiều hạn chế so với chiếc máy quay chuyên nghiệp, chính vì vậy, nó dành cho những phim chấp nhận sự thua thiệt ở nhiều mặt khác để đổi lấy giá thành. Dù vậy, tôi luôn khuyên SV của mình mua những chiếc máy ảnh có thể quay phim để họ có thể song song làm hai loại bài tập – Nhiếp ảnh và Quay Phim. Nó giúp cho họ tiết kiệm chi phí khi làm Bài tập quay phim. Với những sinh viên có điều kiện và ham hiểu biết, họ có thể mua những chiếc máy ảnh đắt tiền như Canon 5D Mark II cùng những ống kính đơn chính hãng để làm những bài tập có chất lượng cao. Tuy nhiên, vì là chiếc máy ảnh nên nó quá nhỏ và nhẹ để có thể thao tác uyển chuyển như chiếc máy quay phim chuyên dụng. Vì vậy, theo tôi, làm phim bằng máy ảnh chỉ phù hợp với những phim có dự toán thấp, phù hợp với sinh viên và chất lượng vừa phải.


Ông Trần Văn Hùng, tổng giám đốc Công ty Vinacinema:







Tôi hoàn toàn ủng hộ xu hướng dùng máy ảnh để quay phim. Điện ảnh Hollywood họ cũng đã làm, vậy chúng ta tại sao nói không? Hiện nay, những dự án liên kết sản xuất phim của chúng tôi sẽ hoàn toàn sử dụng máy ảnh Canon 5D Mark II. Ở Việt Nam dòng máy chụp hình này chỉ được dùng phổ biến cho việc quay clip và phim ngắn. Riêng với thể loại phim truyện luôn bị dị ứng, khó chấp nhận với giới trong nghề. Bộ phim truyện hành động Ranh giới trắng đen do Vinacinema liên kết sản xuất với Indonesia là phim đầu tiên chúng tôi sử dụng máy ảnh Canon EOS 5D Mark II để quay. Một loạt các dự án phim giá thành rẻ được sản xuất trong năm 2012 và 2013 với các nước Trung Quốc, Hồng Kông, Singgapore, Malaisia, Indonesia và Mỹ đều được nhắm tới bằng chiếc máy ảnh này. Đạo diễn Najantolisa (Indonesia)- là một trong những đạo diễn nổi tiếng làm phim ăn khách ở nước này cho biết: ông từng đã 4 năm sử dụng máy chụp hình Canon 5D Mark II với số lượng phim sản xuất từ 12 đến 16 phim trong một năm (hai phim, thực hiện trong khoảng một tháng rưỡi), hậu kỳ dựng hình ngay trên Macbook.


Quay phim trẻ Nguyễn Khắc Nhật, Nhóm làm phim 2115 (Cánh diều Vàng 2012 cho bộ phim ngắn 17 phút 16giờ 30 được quay hoàn toàn bằng Canon 5D Mark II):






Phim ngắn 16giờ 30 ( thể loại tài liệu, truyện) đề cập tới 4 đứa trẻ lang thang tranh giành các con hẻm ở thành phố vào lúc 16giờ 30 hàng ngày để bán tờ dò vé số và số đề. Trong phim không có cảnh pal, luôn phải cầm máy chạy theo nhân vật, do nhược điểm của máy quay nhanh dễ bị méo hình, nên quay phim luôn biết chủ động kìm máy bằng cách luôn nín thở tránh để tay bị run. Bối cảnh phim phải quay ở hơn 10 con hẻm nhỏ, khá chật trội nên sử dụng máy này vừa gọn, nhẹ, lại linh động. Thậm chí rất nhiều cảnh phải quay lén những con người, sự việc thật nên dễ giấu được máy.

Hiện ở TP.HCM có rất nhiều studio cho thuê máy 5D Mark II với giá 500.000 đồng một ngày và ống kính từ 100.000 đồng đến 350.000đồng một ngày, nên hầu hết người làm phim, clip, đặc biệt là sinh viên rất an tâm vừa túi tiền nên đều có thể thuê.


Nhà quay phim Nguyễn Tranh:






Tôi đã xem rất nhiều clip ca nhạc quay bằng máy chụp hình 5D Mark II, chất lượng hình ảnh khá đẹp (tất nhiên không thể nào so sánh với phim nhựa được). Loại máy chụp hình này dùng để quay phim rất gọn nhẹ tiện lợi cho những ai không đủ kinh phí để thực hiện bằng máy quay phim nhựa hay camera Red One. Riêng quan điểm của tôi thì loại máy chụp hình này chỉ dùng để thực hiện cho những thể loại phim có độ dài từ 5 đến 10 phút. Tôi không ủng hộ và cũng chẳng phản đối, mà vấn đề là mục đích của người ta dùng loại máy ảnh này cho những thể loại phim như thế nào mà thôi. Cá nhân tôi thì không thích dùng loại máy chụp hình này thay cho những máy quay chuyên nghiệp để làm phim truyện, vì phim truyền hình có độ dài 45 phút cho 1 tập và phim chiếu rạp có độ dài khoảng 90 phút. Với thời lượng dài như vậy đòi hỏi người quay phim phải suy nghĩ tính toán trước sự chuyển động về hình ảnh, cảm xúc khi quay và nhiều động tác máy phức tạp mà loại máy ảnh đó khó có thể thực hiện. Máy chụp hình 5D Mark II phù hợp cho sinh viên quay phim mới ra trường nhận thực hiện những thể loại phim ngắn với kinh phí thấp, nếu khi có cơ hội làm phim với kinh phí cao, tôi nghĩ các bạn cũng sẽ chọn camera Red One hay máy quay phim nhựa thôi, vì đó là những chiếc camera chuyên dụng.

Đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn:







Trào lưu làm phim bằng máy ảnh hiện nay đã thực sự chinh phục không chỉ đối với những nhà làm phim nghiệp dư mà ngay cả với những người chuyên nghiệp cũng khó cưỡng lại. Việc quay phim bằng máy ảnh cũng có ngôn ngữ riêng của nó – đó là phong cách tài liệu mà đôi khi máy quay chuyên nghiệp không có được. Nó giúp người làm phim có thể thâm nhập vào cuộc sống xã hội mà không bị mọi người chú ý. Với ngôn ngữ thể hiện này sẽ cho người xem cảm thấy mình là người trong cuộc với hiệu ứng “The fly on the wall - con ruồi đậu trên tường” mà chỉ quay bằng máy ảnh mới cho hiệu quả cao nhất. Có thể nói, chất lượng hình ảnh của việc làm phim bằng máy ảnh cho hình ảnh tốt, linh hoạt. Với khả năng xử lý hình ảnh tốc độ cao của máy ảnh với nhiều loại ống kính rời thì không phải máy quay phim thông thường nào cũng có thể có được. Hơn nữa, quay phim bằng máy ảnh có thể phù hợp với mọi điều kiện ánh sáng, thuận tiện trong phạm vi hẹp, chi phí lại chấp nhận được. Tuy nhiên, nó vẫn có những hạn chế cơ bản về kỹ thuật đòi hỏi người làm phim phải biết tìm cách né tránh bởi nó không thể lột tả được về chiều sâu, cũng như độ nét đối với những cảnh hoành tráng. Tôi vẫn thường nói với các em sinh viên của mình việc làm phim bằng máy ảnh không phải dành cho bất cứ loại kịch bản nào, câu chuyện nào, phong cách nào. Do vậy, nếu những người làm phim biết tạo ra một kịch bản, giọng kể và phong cách làm phim thích hợp thì chiếc máy ảnh có thể sẽ phát huy thế mạnh mà đôi khi cả những máy quay chuyên nghiệp cũng không thể. Tôi đã xem một đoạn phim ngắn Một ngày ở Huế được quay bằng máy ảnh Canon 5D. Phải nói rằng đây là những thước phim rất đẹp về Huế với những cảnh đặc tả của buổi sáng sương mờ hay những buổi chiều tà đầy lãng mạn. Nếu trong đoạn phim này không ghi rõ đã thực hiện bằng phương tiện kỹ thuật nào thì tôi cũng không thể nghĩ rằng đó là quay phim bằng máy ảnh. Tôi cũng có ý định muốn làm một phim quay bằng máy ảnh nhưng vấn đề ở đây là tôi vẫn chưa tìm được kịch bản phù hợp.

Đạo diễn Bùi Thạc Chuyên:







Tôi thấy rằng tất cả những phim quay bằng máy ảnh hiện nay như Canon 5D Mark II, 7D đều cho chất lượng hình ảnh tốt. Trào lưu quay phim HD bằng máy ảnh tuy mới xuất hiện nhưng đã nhanh chóng được giới trẻ Việt Nam yêu thích. Họ được mở ra nhiều cơ hội để thỏa sức sáng tạo với niềm đam mê làm phim. Thực tế có nhiều đoạn clip hoặc phim ngắn do các bạn trẻ làm có chất lượng cả về nội dung lẫn hình ảnh. Tôi chưa quay bằng máy ảnh bao giờ nhưng cũng đang thử làm một phim tài liệu theo phương pháp này. Cụ thể thì tôi xin được giữ bí mật. Tôi cho rằng trào lưu quay phim bằng máy ảnh là một công nghệ tốt, chất lượng gần như phim nhựa mà chi phí lại không quá cao. Tôi được biết với đà kỹ thuật ngày càng phát triển như vũ bão, sắp tới máy ảnh của Canon sẽ cho ra đời loại máy quay với độ phân giải 4K (chuẩn chiếu rạp), tương đương với chất lượng phim nhựa nên vấn đề về kỹ thuật không cần phải bàn tới. Điều quan trọng ở đây chính là ý tưởng và sự sáng tạo của người làm phim.

Vừa qua, tôi đã được xem trailer của bộ phim Dành cho tháng 6, đây chính là một dự án điện ảnh hoàn toàn độc lập của đạo diễn trẻ Nguyễn Hữu Tuấn, do chính ê-kip của anh thực hiện từ A đến Z và được quay hoàn toàn bằng máy ảnh. Tôi cũng đang háo hức chờ đợi để được xem bộ phim này sẽ ra rạp vào tháng tới.

Đạo diễn trẻ Nguyễn Hữu Tuấn (đạo diễn phim Dành cho tháng 6):







Việc quay phim bằng máy ảnh có nhiều khuyết điểm nhưng nói chung nó không ảnh hưởng gì nhiều đến công việc kể chuyện của đạo diễn. Với chiếc máy này, một nhà làm phim hầu như là có đủ vũ khí để kể bất cứ câu chuyện gì mà anh ta muốn. Chỉ có điều là nếu đạo diễn muốn "chơi" với các hiệu quả thay đổi khẩu độ ống kính và slow-motion thì chiếc máy này không có chức năng cho các kỹ thuật đó. Dành cho tháng sáu được thực hiện hậu kỳ bởi các chuyên gia người Pháp và họ hoàn toàn không gặp khó khăn gì trong việc xử lý hình ảnh. Quy trình hậu kỳ cho các máy DSLR từ lâu đã được xác định và ở nước ngoài, họ đã làm việc với chúng rất nhiều lần rồi. Về bộ phim thì nhìn chung ai cũng có thiện cảm với nó. Các nhà phát hành và rạp chiếu cũng rất cởi mở hỗ trợ cho một bộ phim độc lập. Có thể Dành cho tháng sáu còn chưa được hoàn hảo, nhưng tôi tin đây là một bộ phim sẽ đem đến một hương vị lạ cho khán giả Việt Nam.

Đạo diễn trẻ Triệu Quang Huy:







Tôi học sản xuất và đạo diễn ở Mỹ nhưng việc quay phim là tự mày mò. Khi về Việt Nam, tôi cảm thấy môi trường chưa thực sự phát triển. Lý do sử dụng máy ảnh để quay phim là vì những chiếc máy ảnh là điều lý tưởng cho các dự án hạn hẹp về tài chính. Hiện nó đang tạo nên một làn sóng làm phim bằng máy ảnh ở Việt Nam. Ưu khuyết thì nhiều người đã phân tích. Tôi thấy rằng nó cũng đang tạo hiệu ứng tốt khi giới trẻ được tiếp xúc với việc làm film nhiều và thường xuyên hơn, cho họ vượt qua rào cản khó khăn của việc thiết bị, giảm kinh phí học hành. Nhưng mặt khác, đối với những bạn ko có nền tảng cơ bản về quay phim nhựa và xử lý/kiểm soát ánh sáng thì rất nguy hiểm, sản phẩm của họ sẽ là do Canon quay hộ và không có cảm xúc

Nhóm phóng viên

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review