THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Ba, 4 tháng 6, 2013

Nhà quay phim Trần Trung Nhàn về nghề quay phim: Kinh Nghiệm và Thực Tiễn


Tết này vắng bóng thầy Nhàn.Ngôi nhà của thầy tại làng Trích Sài học trò vãn lui tới tưởng niệm và ôn lại những kỷ niệm cũ về người thầy thân yêu.Sân trường buổi học đầu tiên trong nắng mới.Lá bàng nguội đỏ rưng rưng trên ghế đá ven hồ.Bóng dáng,giọng nói thân quen của thầy vẫn còn đây đó.Những lời thầy Nhàn tự sự về nghề giờ ngẫm lại sao mà thấm thía.Lý thuyết về nghiệp quay thông qua câu chữ của thầy khúc triết,ẩn dụ mà bình dị dễ nghe và hiểu.Bởi lẽ đó là kiến thức nghề nghiệp đã được chắt chiu và kiểm nghiệm từ những tác phẩm dầy công phu sáng tạo của một Nhà Quay Phim-Người Thầy tài ba và gần gũi. .Và ngày đầu xuân này chúng ta cùng lần xem lại những câu châm ngôn ấy... 
Quay phim với kịch bản:
Rõ ràng, thứ mà một kịch bản bắt buộc phải có là chất liệu văn học. Tất nhiên chúng ta có nhiều thể loại phim, nhưng những phim nghệ thuật thì phải có chất liệu văn học để tạo đà cho anh quay phim tư duy hình ảnh. 

Từ những hình tượng văn học đến hình tượng tạo hình, hai thứ ngôn ngữ đó khác nhau hoàn toàn, nhưng hình tượng văn học tạo chất liệu cho mình suy nghĩ.

Không có hình tượng văn học thì không có gì để mà nghĩ.

Có những kịch bản không hợp với mình, nó không tạo cơ sở cho mình nghĩ ngợi, tư duy, và không tìm được cách tạo hình dựa trên những chất liệu truyện phim. 

Trừ những loại kịch bản khác dành cho phim hành động, phim hình sự mà quay phim sẽ phải nghĩ kiểu khác để tạo hình; những kịch bản mang tính nghệ thuật, sâu lắng một chút thì phải có chất liệu văn học để gợi ý cho anh quay phim tạo hình được. Nếu không thì quay phim sẽ rỗng, chỉ mang hình thức đơn giản và làm cho nghề quay phim trở thành dễ dãi: chỉ ghi hình mà không có chất liệu, không ý tứ, không bề sâu.

Những kịch bản bắt buộc phải làm mà mình không hứng thú thì đúng là không hứa hẹn phim hay.

Quay phim với ngôn ngữ hình ảnh:


Trong nghề quay phim, ngôn ngữ là hình, không nói bằng lời.

Hình của điện ảnh là hình câm nhưng tự thân phải có nghĩa và có ngôn ngữ riêng. 

Hình phải đảm đương trách nhiệm biết nói ấy, và kết hợp với cả âm thanh trong ngôn ngữ chung của điện ảnh để nói nhiều hơn nữa. Nếu tách riêng ra, hình câm nhưng phải có nghĩa. Và nghĩa đó xuất phát từ truyện phim gợi cho mình. 

Đừng lạm dụng độ dài. Khi để dài quá mà không còn gì hấp dẫn thì người ta sẽ chán, ngắn quá thì người ta lại không đủ tiếp thu, nhất là khán giả VN.

Quay phim và cỡ cảnh điện ảnh:
Trình bày các tác phẩm điện ảnh thì quanh đi quẩn lại chỉ có năm cỡ cảnh, tựa như bảy nốt trong âm nhạc, nhưng khi vào tay các nhạc sĩ tài ba thì trở thành bao nhiêu tác phẩm âm nhạc từ giao hưởng cho đến ca khúc...

Sử dụng cỡ cảnh không dễ, phải rất tinh tế, cân nhắc. Dùng sai cỡ cảnh thì ý sẽ không ra. 

Toàn cảnh cho ra không gian rộng lớn hay chật hẹp, nhưng không thấy mặt người, vì vậy cần cận cảnh; nhưng cận cảnh lại hạn chế về không gian. Vì thế bắt buộc phải có sự phối hợp giữa toàn cảnh, cận cảnh, trung cảnh.

Trung cảnh là cỡ trung bình, cho thấy cả nét mặt, hành động, động tác và một phần bối cảnh, nên trung cảnh rất thông dụng. 

Cỡ cảnh gây thú vị và ấn tượng nhất là cận cảnh. Xem hành vi thì người ta xem toàn cảnh, còn tâm trạng tỷ mỷ thì người ta xem cận cảnh. Cận cảnh do đó là cỡ hấp dẫn nhất và khó làm nhất. Mặt người diễn viên thể hiện nhân vật đúng hay sai, diễn có được hay không là do cận cảnh.

Đối với người xem, cận cảnh khắc họa hoàn toàn tính cách và cá tính nhân vật. Nếu cận cảnh không ra thì nhân vật hỏng.

Trong cấu trúc hình ảnh, người ta cố gắng xây dựng nhiều tầng hình: tầng hình thứ nhất là cận cảnh, tầng hình thứ hai là trung cảnh, tầng hình thứ ba là toàn cảnh, và xa nữa là viễn cảnh. Có nghĩa là trong một khuôn hình có nhiều cỡ cảnh bên trong mà người ta gọi là dàn cảnh chiều sâu theo nhiệm vụ của từng cỡ cảnh. 

Sự thay đổi cỡ cảnh đúng, độ dài đúng thì sẽ tạo sự hấp dẫn và tiết tấu cho phim.

Quay phim với đạo diễn: 


Quan hệ giữa đạo diễn và quay phim là quan hệ máu thịt.

Không thể có chuyện anh đạo diễn và anh quay phim quan niệm khác nhau, thẩm mỹ khác nhau mà lại làm nên một tác phẩm tốt. 

Anh đạo diễn muốn làm gì cũng phải ở trong khuôn hình, không thể vượt ra ngoài khuôn khổ khuôn hình được. Mà khuôn hình thì có toan tính thế nào cũng không thể hoàn toàn kiểm soát được. 

Nhiều đạo diễn toan tính trước khuôn hình, thậm chí vẽ storyboard để trước khi quay có thể tính toán góc độ, cỡ cảnh; thế nhưng lúc quay người quay phim lại điều hành toàn bộ công việc trong khuôn hình đấy. 

Cảnh động-Cảnh tĩnh và Động tác máy:
Điện ảnh là động, trong cái tĩnh cũng có cái động chứ cái tĩnh không tuyệt đối. tĩnh có thể liền mạch bằng dựng phim nhưng trong thực tế lại không liền mạch vì thời gian lúc quay khác nhau. 

Động và tĩnh đều phải có cớ, phải lập luận về nội dung, về nghệ thuật. Còn tùy tiện sẽ làm hỏng nội dung cảnh quay, hỏng cả bộ phim.

Quay khuôn hình động hay khuôn hình tĩnh phụ thuộc vào nội dung kịch bản, chứ không phụ thuộc vào sở thích.

Tĩnh là khi máy không cựa quậy, nhân vật không chuyển động bao nhiêu, mình coi đấy là một pô ảnh. Coi là một pô ảnh nhưng cái tĩnh của điện ảnh là cái tĩnh tương đối.Cảnh động được coi là hình thành khi máy quay chuyển động, và dàn cảnh các đối tượng chuyển động.

Động và tĩnh khác nhau ở chỗ: động liền mạch nhiều cỡ cảnh và đương nhiên liền mạch thời gian, không gian. 

Sử dụng máy động, đó chính là bản lĩnh nghề nghiệp. Phải có lập luận để sử dụng máy động cho phù hợp.

Nâng máy lên cũng là nâng dần kịch tính lên, phát triển kịch bằng cách máy ở thấp, cố dấu cái đằng sau. Khi truyện phim phát triển, mình nâng lên, mở ra cho thấy khung cảnh phía sau.

Với cú máy trên grue ( boom, cần trục. L.M) theo những dàn cảnh từ mặt đất lên tầm cao, từ thấp nhìn lên rồi lại từ cao nhìn xuống, máy song hành với diễn viên... Cái khó nằm ở chỗ cùng một cú máy mình phải điều hành nhiều cỡ cảnh khác nhau, nhiều dàn ánh sáng khác nhau, cùng một lúc phải chiếu sáng cả toàn cảnh, cả cận cảnh và bố cục liên tục.

Động máy phải xuất phát từ nội dung, phải hợp lý theo chuyển động nội tại bên trong của con người, trong nhân vật, trong truyện chứ không thể động bừa được, không thể cứ trượt máy lung tung, lên xuống ầm ĩ làm lóa mắt người xem. 

Các em trẻ thường không cựa quậy máy là không chịu được.


Quay phim và ánh sáng:
Ánh sáng tự nhiên, ánh sáng nhân tạo hay kết hợp hai loại ánh sáng đều được sử dụng với mục đích tạo ra hình ảnh trung thực như cuộc sống. Ta nhìn hình trong phim phải cảm giác có đâu đó trong cuộc sống

Việc ánh sáng tái tạo cuộc sống trên màn ảnh phải gây cho khán giả cảm giác thật. Không gian và thời gian xác định ánh sáng, thiết lập được cái đó là cái khó nhất của người quay phim. Ánh sáng ngoại cảnh nhiều người dùng được vì nó có sẵn, tự nhiên. Nhưng ánh sáng nhân tạo thì khó.

Trong nhà, ánh sáng ở đâu vào mà những đường ven, đường viền vẫn cứ mạnh, vẫn cứ cường điệu? Đó hoàn toàn không phải ánh sáng điện ảnh mà là ánh sáng sân khấu.

Còn ánh sáng nhiếp ảnh chỉ chiếu đúng vị trí của đối tượng, nếu đối tượng rời khỏi thì mất ánh sáng.

Ánh sáng điện ảnh như không gian thật, người ta có thể di động nhưng vẫn tạo cảm giác ánh sáng đồng nhất. 


Cách dùng ánh sáng nhân tạo phải kèm theo điều kiện trường quay, kinh phí, trang thiết bị. Khi chiếu sáng trong trường quay, trước hết phải tạo ánh sáng vòm trời - cái cảm giác ánh sáng từ trên chiếu xuống nhẹ, đều, dịu, không gây bóng, chỉ để ra không khí. Sau đó ánh sáng nghệ thuật mới can thiệp vào. Nó phải có ngược sáng, nó phải có ánh sáng chủ quan, ánh sáng phụ...

Nhiều người quá lệ thuộc cái thật. Khi quay cảnh đêm tối trong rừng, trên cánh đồng, trong thực tế là tối đen, không có ánh sáng. Nhưng không sử dụng ánh sáng làm sao quay được phim? Ánh sáng trong trường hợp này vẫn phải dùng, vẫn làm chức năng ghi được hình ảnh nhưng vẫn tạo nên cảm giác đêm tối âm u. Cảm giác đêm tối âm u đó được làm nên bởi... ánh sáng!

Quay phim và màu sắc:
Phim màu là ngôn ngữ quan trọng trong tạo hình, cùng với ánh sáng nó tạo ra tone phim, tạo ra cảm xúc. Dùng màu sắc nóng, lạnh phối hợp với nhau, hay dùng màu nóng không, lạnh không, phối với nhau sẽ tạo ra cảm xúc rất mạnh. 

Tone phim được tạo ra bằng độ tương phản của màu sắc, ánh sáng. Khi người ta xem phim, trên màn ảnh là bức tranh của nghệ thuật tạo hình. Người ta nhìn vào như xem một bức tranh với những mảng màu sắc được chơi, được tổ chức bởi người họa sĩ.

Khuôn hình của quay phim, về mặt màu sắc, giống như khuôn hình của họa sĩ ở việc biểu lộ nội dung, cảm xúc bằng màu sắc, tuy cách làm có khác nhau.


Quay phim với hiệu quả sử dụng ống kính:
Tất cả xuất phát từ nhiệm vụ của nghệ thuật, của tạo hình: muốn tăng hay giảm chiều sâu, khi đó sẽ đóng hay mở khẩu độ tương ứng. Khẩu đô – độ mở của ống kính phụ thuộc vào dàn cảnh. Nếu muốn dàn cảnh chiều sâu thì phải khép khẩu độ ở mức độ từ 5.6, 8, 11, mà muốn đóng khẩu độ thì phải có ánh sáng.

Khi đóng, mở khẩu độ thì độ nét thay đổi. Xem cả đoạn phim mà lổn nhổn độ nét thì rất khó chịu cho khán giả.

Trong điều kiện ở VN, dùng một khẩu độ cho toàn phim là rất khó.

Hiệu quả của góc rộng có cái thích là làm cho méo hình, làm cho hình mềm lại nên thuận lợi để quay những dàn cảnh rộng, dàn cảnh chiều sâu, nhiều lớp lang. Bởi tính chất của góc rộng là nét sâu, thấu thị và đường hội tụ của góc rộng thu vào nên thay đổi cỡ cảnh của góc rộng cũng rất rõ.


Hiệu quả góc rộng tạo lớp trước, lớp sau rất rõ ràng. Chuyển động thẳng trục ống kính khi được quay với ống kính góc rộng sẽ cho cảm giác nhanh hơn thực tế vì cỡ cảnh thay đổi nhanh.

Mình cần nghiên cứu áp dụng tính quang học, khả năng thấu thị của các loại ống kính để áp dụng.

Những chuyển động thẳng trục quay bằng télé thì rất chậm như bay và không tạo tiết tấu.

Zoom thì bất đắc dĩ tôi mới dùng. Chất lượng quang học của ống kính zoom, cùng một lúc thỏa mãn góc rộng, normal và cả télé, nên chỉ trung bình, chung chung. Nhưng zoom cũng có những điểm hay của nó: Không phải thay ống kính khi cần quay nhanh, đặc biệt hữu dụng cho anh em quay thời sự, tài liệu.

Ở những dàn cảnh nhiều cỡ cảnh, dàn cảnh dài, cần thay đổi cỡ cảnh sau khi đã đặt travelling hay dolly mà vẫn không thể tiếp cận thì mới sử dụng kết hợp zoom. Lúc này mình có thể giải quyết cảnh theo đủ chiều không gian: cả chiều ngang, cả chiều đứng lẫn chiều sâu. Cái zoom đó rất lợi hại. Nó lẩn, nó đi vào những công năng cụ thể thì rất hay, rất tốt

Những lúc đẩy zoom rất nhanh thì lúc đấy rất cần zoom, còn ề ề à à zoom in thì rất dài dòng.

Cú zoom dài dòng thường bị đạo diễn lấp liếm bằng âm thanh hay âm nhạc để kéo cảm giác dư thừa của đoạn ấy ngắn lại.

Những lúc đẩy zoom rất nhanh thì lúc đấy rất cần zoom, còn ề ề à à zoom in thì rất dài dòng.

Cái zoom tí toáy thò ra, thụt vào là tôi ghét lắm. 


Theo LÊ MINH-10 bí quyết hình ảnh.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review