Quay phim dưới nước là quá trình quay trong khi ở dưới nước.Công việc này thường được thực hiện trong khi lặn biển để làm phim tài liệu hoặc nghiên cứu,nhưng có thể được thực hiện trong phim truyện,lĩnh vực thể thao như ở ,trường quay dưới nước,bể bơi,sông ngòi...
Hình ảnh dưới nước được coi là một khu vực đặc biệt, là thách thức của người quay phim vì nó đòi hỏi thiết bị và kỹ thuật chuyên ngành( bao gồm cả kỹ năng sử dụng máy quay và kỹ năng lặn) để thực hiện thành công. Mặc dù là thách thức lớn, nhưng nó cung cấp những nguồn đề tài, cách thức sáng tạo thú vị và cơ hội ghi hình trong một môi trường đặc biệt khác hoàn toàn trên bờ. Từ những hệ sinh thái dưới nước những động vật như cá và các loài động vật có vú sống ở biển đến việc mô tả các con tàu đắm , các hệ thống hang động ngập nước, góc nhìn từ dưới nước với các sự việc diễn ra xung quanh (người bơi,sinh hoạt của dân biển, cây cối sống trong vùng ngập nước..., hay đơn giản hơn là bức chân dung của các thợ lặn.
Trở ngại chính mà các nhà quay phim dưới nước phải đối mặt là sự mất mát cực kỳ màu sắc và độ tương phản khi ngập nước. Dưới nước bước sóng của ánh sáng mặt trời (chẳng hạn như màu đỏ hoặc cam) được hấp thu nhanh chóng bởi các nước xung quanh, do đó, ngay cả khi nhìn bằng mắt thường tất cả mọi thứ thường có màu xanh-màu xanh lá cây.
Trước mắt nói về độ sâu dưới biển.Thời gian quay dưới nước ban ngày ngắn hơn bình thường trên mặt nước.Hiệu quả ánh sáng mặt trời chiếu xuống bắt đầu muộn hơn,dấu hiệu tắt nắng cũng sớm hơn.Để thực hiện các cảnh quay dưới nước dưới bằng hiệu quả ánh sáng tự nhiên,thời gian tốt nhất từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều.Ánh sáng mặt trời một phần bị phản xạ trên bề mặt nước ( khoảng từ 5-10% tùy theo góc chếch của mặt trời ) sẽ bị khuyếch tán rồi bị tản dần đều theo từng độ sâu.Nếu ở độ sâu dưới1mét màu sắc của môi trường nước tương tự như trên bề mặt thì từ hơn 1m đến độ sâu 5m lại chuyển sang đỏ hồng rồi màu cam.Màu cam biến mất từ độ sâu chưa tới10m để nhường chỗ cho màu vàng,màu xanh lam-lục lại thay thế màu vàng từ độ sâu trên 10 đến 20m.Sâu quá 20m nước thiên màu tím sẫm rồi tối hoàn toàn.Như vậy việc quay phim dưới nước với ánh sáng tự nhiên thường được thực hiện ở độ sâu trên dưới 20 mét đổ lại.
Sự mất mát của màu sắc không chỉ làm tăng theo chiều dọc qua các cột nước, nhưng cũng theo chiều ngang, vì vậy đối tượng xa từ máy quay cũng sẽ xuất hiện không màu và không rõ ràng. Hiệu ứng này đúng ngay cả trong nước dường như rõ ràng, chẳng hạn như xung quanh nhiệt đới rạng san hô.
Quay phim dưới nước giải quyết vấn đề này bằng cách kết hợp hai kỹ thuật. Đầu tiên là để được máy quay càng gần vật cần ghi hình càng tốt, nó giảm thiểu sự mất mát của màu sắc theo chiều nhìn ngang.Vì điều này mà các máy quay dưới nước tốt nhất thường được sử dụng ống kính góc rộng wide-angle lenses ,cho phép ghi hình rất cận,hoặc ống kính macro lenses.Do đặc thù độ khúc xạ ánh sáng của môi trường nước,khoảng cách hình ảnh được thu ngắn lại so với thực tế,thí dụ khi quay dưới nước khoảng cánh thực tế giữa máy quay là 4m thì trên máy quay chỉ đặt là 3m.
Kỹ thuật thứ hai là việc sử dụng đèn để khôi phục lại bị mất màu theo chiều dọc qua cột nước. Sử dụng đúng đèn và kính lọc hiệu quả, sẽ "vẽ" lại bất kỳ màu sắc bị mất bằng cách cung cấp quang phổ ánh sáng để nhìn thấy toàn tổng thể cảnh vật tiếp xúc.
Kể từ khi ghi hình dưới nước thường được thực hiện trong khi lặn biển, điều quan trọng nữa là các cameraman cũng phải là chuyên gia lặn đủ tay nghề cao để vẫn có thể tác nghiệp cho ra đời những tác phẩm có sức cuốn hút nhưng cũng luôn phải đảm bải được đó là một hoạt động an toàn.
Kỹ thuật lặn tốt cũng có ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh.Một người quay phim là thợ lăn có khả năng tốt sẽ không bị sợ hãi đi bởi với môi trường sống trong lòng biển khác xa với môi trường trên cạn. Họ cũng sẽ không làm môi trường bị hư hỏng hoặc bị xáo trộn ( giẫm đạp gãy những nhánh san hô, hay gây nguy hiểm cho các loài sinh vật nhỏ bé định ghi hình). Kỹ năng lặn tốt giúp họ có khả năng đối phó khi gặp phải các điều kiện hiểm nghèo, chẳng hạn như dòng nước siết , lưu lượng nước quá cạn hay quá sâu, hay đơn giản là tầm nhìn kém. Nói chung, quay phim dưới nước trước khi nghĩ tới những tác phẩm hấp dẫn phải cố gắng tránh và đối phó được với những tình huống nguy hiểm xảy đến bất ngờ.Có lúc người quay phim phải biết ngụy trang người và máy để giấu mình trước các sinh vật nhỏ bé,nhút nhát dưới biển.Ngược lại họ cũng phải phòng ngừa trước cả loài cá,bạch tuộc lớn hung dữ.Điều này đòi hỏi các nhà làm phim phải có kiến thức về sinh vật biển.
Khó khăn chính trong việc sử dụng máy dưới nước, tất nhiên,là việc giữ kín các camera trong nước ở áp suất cao, trong khi vẫn duy trì khả năng để vận hành nó. Vỏ máy cũng hạn chế khả năng ghi hình ảnh và nhìn thấy màn hình monitor một cách rõ ràng khi ở trong nước. Trước đây kích thước của máy quay cũng là một yếu tố hạn chế, cần phải có một vỏ bọc lớn để cho được máy quay chuyên dụng vào trong để ghi hình. Điều này dẫn tới hệ quả là trong một thể tích lớn bịt kín khiến nó dễ bị nổi, đòi hỏi phải tạo ra thêm trọng lượng nặng để giữ cho nó ở dưới nước. Các máy quay lúc khởi đầu cũng cần pin lớn vì phải cấp cả điện năng tiêu thụ của hệ thống cồng kềnh kèm theo.
Phức tạp nhất là quay dưới nước bằng máy quay bằng phim nhựa.Phải sử dụng loại phim thích ứng với nhiệt độ màu ngoài trời-phim daylight.Ở độ sâu hơn nữa phải sử dụng thiết bị chiếu sáng và phim quay tương thích với nhiệt độ màu 3200-phim tungsten.Trong những hoàn cảnh đặc biệt quay ở độ sâu rất hạn chế về ánh sáng và thiết bị chiếu sáng người ta phải sử dụng phim độ nhạy cao tới 1000ASA thì các loại phim đảo dương-phim slide hay được dùng đến.
Hiện nay các loại máy quay truyền hình,máy quay kĩ thuật số với lợi thế về độ nhạy sáng của bộ cảm biến điện tử dần dần thay thế hoặc hỗ trợ máy quay phim nhựa khi quay dưới nước.Kích thước các máy quay số được sử dụng phổ biến nhỏ hơn, chức năng có thể tự động hoàn toàn, với màn hình lớn và số giờ pin lớn đã làm giảm kích thước vỏ máy quay dưới nước giúp cho quay phim dưới nước một hoạt động dễ dàng tạo tiện lợi và sự thích thú khi sử dụng.
Ống kính góc rộng trở nên phổ biến cho máy quay và một số thậm chí có thể được gắn bên ngoài vỏ máy để sử dụng linh hoạt. Điều này cho phép các quay phim tiếp cận được gần gũi hơn và ghi hình đối tượng rõ ràng hơn. Máy quay được sử dụng ngày hôm nay cũng thường nhạy hơn với điều kiện ánh sáng thấp và điều chỉnh màu sắc cân bằng tự động. Tuy nhiên, khi quay phim dưới nước sâu hơn vẫn cần nguồn ánh sáng phụ trợ để mang lại màu sắc đẹp hơn. Với những thiết bị chiếu sáng chuyên dụng sẽ giúp hiển thị một số màu sắc tuyệt vời của các rạn san hô hoặc các sinh vật biển nếu được sử dụng trong suốt quá trình ghi.
Vỏ máy quay dưới nước hiện đại nhất hiện tại chịu được áp lực của nước ở độ sâu hàng chục mét, vượt xa độ sâu an toàn thực tế của thể thao lặn(trong khoảng dưới 45m).Vật liệu để làm các vỏ máy ghi hình dưới nước điển hình thường là từ nhựa polycarbonate đúc, hoặc nhôm công nghiệp sử dụng cho nhiều hệ thống chuyên nghiệp (như hàng không, vũ trụ). Vỏ máy quay dưới nước thường qua các phụ kiện đã được tinh giảm tối đa để thực hiện điều khiển các máy quay chúng mang bên trong.
Hiện nay các loại máy quay dưới nước được sử dụng ngày càng rộng rãi và cũng phát triển với rất nhiều chủng loại. Từ những máy quay amater như điện thoại di dộng đến các dòng bình dân như máy ảnh số các dòng cũng được khoác lên mình một số mẫu áo thích hợp để có thể "dìm được" xuống nước. Cho đến các dòng chuyên nghiệp hơn cho các máy DV số SD, HD ( từ các dòng sony Z như Z1, Z7, tới EX như EX1, EX3) và thực sự cao cấp như Red one và thời gian qua một công ty Úc đã sản xuất một máy quay 3D dưới nước đầu tiên.
Những thông tin về bộ phim truyện 3D với những cảnh quay hoành tráng dưới nước của Đạo diễn James Cameron tác phẩm Sanctum được thực hiện hoàn toàn bằng những máy quay 3D dưới nước đang chuẩn bị chờ ngày ra rạp.
Nguyễn Đình Hoàn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét