THE ART IN MY HEART !!!

Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

Làm chủ bố cục khi chụp ảnh


Một trong những quy luật đầu tiên về bố cục mà chúng ta được học trong nhiếp ảnh là quy tắc 1/3. Nhưng sau khi đã hiểu được nó, chúng ta có thể làm gì hơn để cải thiện bố cục những bức ảnh của mình? Quy tắc đó sẽ giúp bạn bắt đầu, nhưng bố cục còn chứa đựng nhiều yếu tố khác chứ không chỉ là việc bạn đặt đối tượng của mình ở chỗ nào trong khung hình. Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá thêm một vài khía cạnh của bố cục trong nhiếp ảnh, để đảm bảo rằng bạn hoàn toàn hiểu được làm thế nào để có được những bức ảnh hoàn hảo.
Tôi chưa bao giờ thích thuật ngữ "quy tắc 1/3". "Cách tiếp cận 1/3" có vẻ chính xác hơn, nhưng lại khó nhớ. Tại sao lại là "cách tiếp cận"? Bởi vì thỉnh thoảng vị trí tốt nhất để đặt đối tượng của bạn vào khung hình lại là trung tâm, hoặc ở cạnh. Khi bạn bắt đầu suy nghĩ về bố cục như một 'quy tắc', bạn đang chụp ảnh theo một công thức cứng nhắc. Bạn đang ở trong vòng nguy hiểm khi làm việc bằng cái đầu mà không phải bằng con tim (tốt nhất, hai thứ này nên đi cùng nhau).


Đảo đá, đối tượng chính trong bức hình trên, đã được tôi đặt ở giữa rìa trên của ảnh, chỉ vì nó có liên quan mật thiết với ảnh phản chiếu của mây trời. Bố cục là sự cân bằng giữa mây trắng và đá đen. Cảnh này gần như sẽ không bao giờ có thể chụp được nếu chúng ta cứng nhắc sử dung 'quy tắc' một phần ba.

1. Hướng dẫn

Trong bài viết này, có 7 hướng dẫn để cải thiện bố cục của bạn. Hãy suy nghĩ về chúng như những biển báo trên con đường đi đến đỉnh cao nhiếp ảnh của bạn. Chúng sẽ đưa bạn đến đó, nhưng bạn vẫn có quyền tự do đi theo con đường của riêng bạn vào bất cứ thời điểm nào.

2.Thử thách chính mình

Đây là một thử thách dành cho bạn. Với mỗi luận điểm trong bài viết này, bạn hãy tự đặt ra cho mình một mục tiêu để luyện tập. Đi ra ngoài và chụp một vài bức ảnh. Những thông tin bạn đang đọc sẽ trở nên có giá trị hơn bao giờ hết, và bạn sẽ học được rất nhiều về bố cục, ảnh bạn chụp được cũng sẽ đẹp hơn.

3. Những đường thẳng

Những đường thẳng sẽ đưa mắt người xe từ điểm này đến điểm khác trên cùng một bức ảnh. Hãy tìm mọi đường thẳng có thể dẫn đến đối tượng của bạn. Tránh những đường thẳng dẫn dắt mắt người xem ra ngoài ảnh của bạn. Hãy nhớ, đường thẳng vẫn có thể cong cũng như thẳng như cái tên của nó.

Những đường thẳng được tao ra bởi chiếc thuyền trong ảnh trên đã dẫn mắt người đọc giữa bức hình. Mắt bạn đã đi từ theo đường chiếc thuyền cũng như là từ đất liền ra biển.


Những đường thẳng tương đồng trong bức ảnh này lại cực kỳ mạnh mẽ, dẫn mắt người xem từ mặt đất trước mắt đến tận đường chân trời. Đó là một bố cục hết sức thông minh. Những đường xéo tạo cảm giác chuyển động cho bức ảnh, và giúp bạn tạo ra một bức ảnh có sức ảnh hưởng đến người xem.

4. Tiền cảnh thú vị

Đừng thờ ơ với tiền cảnh (foreground) trong ảnh của bạn. Hãy khiến tiền cảnh làm việc cho bạn. Như thế nào ư? Cách tốt nhất là hãy đảm bao rằng có thứ gì đó thú vị để khiến người khác phải nhìn vào. Nghĩa là bạn hãy tìm một thứ gì đó thú vị, nhưng không gây ảnh hướng đến hoặc không làm giảm sự chú ý đến đối tượng chính của bạn.

Đối tượng của bạn là trung tâm của bức ảnh (điều này không có nghĩa là vị trí của nó phải nằm giữa khung hình, mà nó là phần quan trọng nhất trong đó). Những yếu tố xung quanh đối tượng, như tiền cảnh nên có một vai trò hỗ trợ.

Bức ảnh này là một ví dụ khá rõ ràng, phần nền đất xung quanh đường ray có bề mặt khá thú vị và nó giúp thiết lập cảnh cho toa tàu.


Nếu như có thì tiền cảnh trong bức hình này có gì thú vị? Đó là chẳng có gì thú vị. Thứ thú vi hơn là bầu trời kia, dãy núi và nhà thời. Tiền cảnh quá tẻ nhạt nên tôi đã không đưa nó vào.


Cũng có một cách tiếp cận khác - đặt đối tượng của bạn làm tiền cảnh như ở đây chẳng hạn. Cái hố chính là đối tượng; khói, núi và bầu trời là những chi tiết hỗ trợ.

5. Chọn ống kính

Ống kính nào là tốt nhất để chụp ảnh. Có ba lựa chọn cơ bản: góc rộng, chuẩn, và tele. Mỗi ống kính đều có tính năng riêng, thích hợp với một số đối tượng nhất định.


Ống kính góc rộng khá thú vị. Bạn có thể đứng gần đối tượng mình, dùng ống góc rông để chụp mà vẫn có được nhiều phông nền (background). Ống kính góc rộng có ích cho nhiếp ảnh vì để chụp được một bức ảnh đẹp, đôi lúc bạn chỉ có thể đứng gần đối tượng. Bức ảnh trên là ảnh một học sinh Bolivia. Cậu ta đứng rất gần máy ảnh của tôi, và ống kính góc rộng cho phép tôi chụp được cả những người bạn của cậu ấy.


Một cách khác là dùng ống kính tele khi bạn chỉ cần chụp đối tượng của mình và không quan tấm đến phông nền. Bạn có thể làm điều này bằng cách mở khẩu lớn (f nhỏ) để xóa phông. Hoặc bạn có thể tách biệt đối tượng của bạn khỏi môi trường, như bức ảnh hai cô gái Bolivia trên đây. Bức ảnh này rất khác với bức có cậu học sinh ở trên kia, và lý do chính là nó được chụp với ống kinh tele, không phải ống kính góc rộng.

Nếu bạn bạn không có một ống kính góc rộng hay một ống kính tele, bạn vẫn có thể luyện tập những thứ này bằng cách sử dụng những điểm mút của một ống kính thông thường (ví dụ 18mm và 55mm đối với một ống kính 18-55). Độ dài tiêu cự như vậy là tương đối tốt để bạn có thể thử nghiệm với nhiều bức ảnh khác nhau.

6. Khoảng siêu trống

Nếu vùng không gian xung quanh đối tượng của bạn trống trải hoàn toàn, như bức ảnh vỏ sò dưới đây, vùng không gian đó được gọi là 'khoảng siêu trống' vì gần như chẳng có gì trong đó. Khoảng siêu trống giống như một căn phòng rộng dành cho đối tượng của bạn vậy. Nó cũng có thể toát lên được môi trường của đối tượng của bạn.


Robert Capa, nhiếp ảnh gia, phóng viên báo ảnh người Hungary đã từng nói: "If your picture isn't good enough, you're not close enough" (Nếu bức ảnh của bạn chưa đủ tốt, nghĩa là bạn chưa đủ gần). Rất nhiều bài viết khuyến khích bạn hãy đến gần hơn với đối tượng của bạn. Nhưng thỉnh thoảng bạn có thể tạo một bức ảnh đẹp bằng cách lùi lại và lấy thêm một chút khoảng siêu trống xung quanh đối tượng của mình.

7. Hình khối và hoa văn

Hãy tìm kiếm những hình khối và hoa văn thú vị. Chúng có thể là hoa văn từ thiên nhiên, hoặc hình khối của những tòa nhà sừng sững giữa bầu trời. Khi bạn đã tìm ra thứ gì đó thú vị, tiến lại gần và tập trung vào thứ hình khối hay hoa văn đã lọt vào mắt xanh của bạn đó.



Bức ảnh về những lá súng này bao gồm một loạt những hình gần tròn. Tôi đã tiến lại gần và dùng một filter thích hợp để loại bỏ sự phản chiếu của mặt nước. Nó đẹp khi có màu, và tuyệt vời khi trắng đen. Trắng đen tuyệt vời hơn vì màu sắc sẽ làm giảm sự chú ý đến hình thù mà những lá súng đã vẽ ra trên mặt nước.

8. Độ tương phản

Sự tương phản là một yếu tố quan trọng trong bố cục. Mọi thứ xung quanh ta đều có sự tương phản. Một khi bạn ý thức được hiệu quả của sự tương phản, bạn có thể cố tình tìm và tạo ra nó. Một vài loại tương phản đem lại hiệu quả trong các bức ảnh là sự tương phản giữa cũ và mới, sáng và tối, thô và mịn, lỏng và rắn, hay nóng và lạnh.


Những bông hoa này là một ví dụ cho sự tương phản về màu sắc. Bông hoa đỏ đậm tương phản với phông nền xanh lá. Những màu sắc khác nhau cũng sẽ bổ sung cho nhau, có nghĩa là chúng làm việc cùng nhau. Một số màu nghịch nhau (như đỏ và xanh dương) cũng là một loại tương phản khác mà bạn có thể sử dụng.


Có một sự tương phẩn ở đây giữa ngôi nhà cũ xuống cấp và cảnh đẹp xung quanh nó. Bức ảnh được chụp ở một vùng hẻo lánh ở miền Nam Chi Lê nơi người dân sống trong những ngôi nhà được làm bằng gỗ. Họ không có nhiều tiền, nhưng xung quanh họ là vẻ đẹp đầy khắc nghiệt của dãy Andes ở Chi Lê.


Có đến hai kiểu tương phản trong bức ảnh này. Đầu tiên là sự tương phản giữa màu trắng của dòng nước và màu đen của đá. Kiểu này gọi là tương phản về tông màu. Tương phản tông màu là hết sức cần thiết với nhu74ng bức ảnh trắng đen và cũng rất hiệu quả đối với ảnh màu. Kiểu thứ tương phản thứ hai là giữ những tảng đá và dòng nước. Nước mềm mỏng và chuyển động, trong khi đá cứng và đứng yên. Hiệu ứng này được tạo ra bằng cách kết hợp máy ảnh, chân máy, và tùy chỉnh thời gian phơi sáng lâu một chút để làm mịn chuyển động của nước.

9. Sự đơn giản

Đã đến thời điểm để áp dụng tất cả những hướng dẫn phía trên cùng nhau. Nếu còn một nguyên lý nào khác giúp ích cho bạn trong trường hợp này, thì đó là sự đơn giản. Quyết định yếu tố quan trọng nhất trong bức ảnh, và loại bỏ bất cứ thứ gì không liên quan. Mỗi phần trong ảnh của bạn đều có giá trị. Nếu không tạo ra giá trị, hãy đem chúng ra ngoài khung hình của bạn. Bố cục sẽ trở nên đơn giản hơn, đậm đà hơn và hiệu quả hơn. Ảnh của bạn sẽ có sức hút hơn và thông điệp của bạn sẽ rõ ràng hơn rất nhiều.


Tôi chụp bức ảnh này ở Bolivia. Đó là một ngôi làng hẻo lánh và người dân địa phương mang sandal làm từ vỏ xe cao su. Tôi muốn chụp một chiếc sandal và đã zoom thẳng vào chân người đàn ông này. Bức ảnh bạn chân và chiếc sandal của người đàn ông - và chỉ thế thôi.


Bức ảnh này là một tảng đá đang đứng là một ví dụ khác về sự đơn giản. Tôi muốn chụp hình dạng không bình thường của tảng đá. Bức ảnh cũng có sự tương phản về tông màu, giữa đá sáng và nền tối. Và cũng có một sự tương phản giữ chất liệu cứng của đá, nhân tạo và cây cỏ mềm mại, tự nhiên xung quanh nó.
10. Kết luận
Việc áp dụng những nguyên tắc để tạo ra một bức hình đẹp là rất quan trọng, nó sẽ rất có ích trong rất nhiều trường hợp khác nhau. Nếu bạn định thử kiểm chứng một điều gì đó trong bài viết này, hãy nhớ rằng bố cục sẽ trở nên ý nghĩa hơn nhiều khi cảm nhận bằng con mắt nghệ thuật của bạn. Cầm máy lên nào, và dùng trái tim của mình để chụp ảnh thôi.

Tác giả bài viết: Master the Art of Photographic Composition - Andrew Gibson

10 cách phá vỡ bố cục trong Nhiếp ảnh


Trước hết, hãy ghi nhớ một điều đó là nhiếp ảnh là một loại hình sáng tạo nghệ thuật và đừng để các "qui tắc" giới hạn khả năng sáng tạo của mình. Có một vài nguyên tắc về bố cục chỉ có tính chất tham khảo, bởi thực chất có quá nhiều ngoại lệ rất “hợp lý” của những nguyên tắc đó. Đôi khi, phá luật một chút lại có thể làm nên một bức ảnh đẹp. Tất nhiên, điều này chỉ đúng khi và chỉkhi người chụp ảnh nhận thức được mình đang làm gì. Vì thế, thay vì áp dụng các qui tắc đó một cách máy móc, hãy tìm hiểu chúng để biết cách vận dụng cũng như phá vỡ nó một cách hợp lí. 
1. Quy tắc một phần ba - Rule of Third - (tỷ lệ vàng cho bố cục, tức là nên đặt chủ thể của bức ảnh ở vị trí nên đặt ở vị trị giao cắt của các đường thẳng chia tấm hình ra làm 3 phần ngang và dọc. Qui tắc này có thể giúp bạn tạo được sự hài hoà và cân đối trong bố cục nhưng cũng có thể rất nhàm chán. Ví dụ:


Như bức ảnh trên thì ko có chủ thể nào nằm trong 4 điểm giao cắt của các đường thằng chia bức ảnh ra làm 3 phần cả nhưng bức ảnh nhìn vẫn không bị nhàm chán. Đó là cách chúng ta phá vỡ qui tắc đầu tiên 


2. Đường cong hình chữ S – một trong những cách tạo bố cục cuốn hút trong nhiếp ảnh. Ví dụ: 

wow... đẹp đó chứ phải ko? 

Tuy nhiên, có lẽ S k phải là chữ cái duy nhất tạo được sự cuốn hút, và đó là cách chúng ta phá vỡ nguyên tắc thứ 2.


3. Lý thuyết đường chỉ dẫn (Theory of guidelines) - qui tắc Rule of Third cũng từ đây mà ra - áp dụng các đường dẫn để hướng mắt người vào chủ thể của bức ảnh. Qui tắc này được áp dụng rất nhiều và một số người áp dụng nó rất khôn khéo, sử dụng khoảng trắng của bức ảnh như 1 đường dẫn vô hình để đưa mắt người hướng vào chủ thể. Ví dụ: 


Bức ảnh trên nhìn thú vị bởi theo lí thuyết khi khi mắt người "tìm kiếm" các vùng không gian trống xung quanh không có gì sẽ lập tức di chuyển đến vùng không gian có đối tượng và như thế các khoảng trống đóng vai trò như một đường dẫn vô hình. Kĩ xảo này được áp dụng rất nhiều trong trường phái nhiếp ảnh tối giản - Minimalist Photography.


Một vài ví dụ khác: 




Khá thú vị phải không? 

Tuy nhiên lí thuyết mà kĩ thuật này áp dụng đã được chứng mình là sai về mặt khoa học. Vì thực tế là mắt chúng ta sẽ nhanh chóng phát hiện ra chi tiết thú vị nhất của bức ảnh. Và vì thế, không nhất thiết là chủ thể chính phải nằm đúng vào trung tâm tầm nhìn của người xem hoặc cần phải có một đường chỉ dẫn nào cả. 

4. Bố cục hình tam giác, đường chéo hay bất cứ bố cục kiểu hình học nào khác chỉ tồn tại duy nhất trong tâm trí người phát minh ra chúng mà thôi. Người xem sẽ chẳng để ý nhiều nếu như trước đó họ không có ý niệm gì về chúng.



5. Không bao giờ nên để đường chân trời phân đôi bức ảnh vì nó sẽ tạo ra sự nhàm chán.

Cách phá vỡ: Hãy để đường chân trời phân đôi bức ảnh nếu bạn muốn hiện cảm xúc buồn tẻ trong bức ảnh của mình 


6. Chuyển động và hoạt động của chủ thể nên hướng từ trái sang phải, tuân thủ theo trình tự tự nhiên khi đọc sách?

SAI !!!! Người Do Thái và Ả Rập đọc từ phải sang trái, người Nhật đọc từ trên xuống dưới. 

7. Không gian phía trước chủ thể nên lớn hơn không gian ở phía sau?
Không phải luôn luôn đúng. Ví dụ, một người đang chạy, đặt vị trí ở gần phí rìa của khuôn hình theo hướng chạy của anh ta, sẽmang lại cảm giác sắp chạm tới đích. Điều này khá quan trọng khi chụp các sự kiện thể thao (ví dụ các cuộc thi chạy)



8. Khi chụp ảnh chân dung, người chụp nên để chừa một khoảng trống nhiều hơn ở phía mà chủ thể đang nhìn tới. Cũng đúng nhưng vẫn có thể phá vỡ qui tắc này bằng cách hạn chế khoảng trống phía trước hướng nhìn của chủ thể nhằm thể tạo một bức ảnh có hiệu ứng căng thẳng hơn.


9. Phần sáng của bức ảnh sẽ bắt mắt hơn phần bị tối. Điều này cũng đúng nhưng sẽ sai trong trường hợp ngược lại đó là một mảng tối nhưng có ranh giới rõ ràng, đặt ở trong một không gian rộng và thoáng đãng sẽ ngay lập tức thu hút sự chú ý.

10. Sự lặp lại hoặc tuần hoàn của các yếu tố tương tự nhau sẽ tạo nên một kết cấu khá thú vị.


Đúng và chỉ khi đúng khi đối tượng bạn chụp không phải là một mảng chằng chịt hay một chuỗi những thứ nhạt nhẽo và giống y chang nhau vì chắc chắn như thế không thể thú vị hơn một vật thể nhưng vô cùng hấp hẫn được 

PVst

Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

Nhiều tác phẩm tham gia Liên hoan phim tài liệu Âu - Việt lần thứ 5.


Năm nay là năm thứ năm liên tiếp Liên hoan phim (LHP) tài liệu châu Âu sẽ đến với khán giả VN. Những nỗ lực của Hãng phim Tài liệu và khoa học trung ương vậy là đã thành công trong việc kết nối quốc tế về phim tài liệu bởi “một quốc gia không có phim tài liệu như một gia đình không có album ảnh” (trích lời nhà làm phim tài liệu người Chile Patricio Guzman).
Có 11 phim của tám thành viên đến từ châu Âu: Trà hay điện, Nỗi niềm thuộc địa, Một mùa hè với Anton, Bruxelles - Kigali (Bỉ); Thành phố của những dấu hiệu (Tây Ban Nha); Tất cả về Jean - Jacques Rousseau (Thụy Sĩ); Phóng viên chiến trường (Pháp); Phát thanh viên: Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme, một người suốt đời đấu tranh vì hòa bình thế giới, đã bị ám sát(Thụy Điển); Bóng bàn (Anh), Sáu tuần (Ba Lan) và Con tàu của kẻ săn bàn thắng (Đức).

Nước chủ nhà VN đem đến LHP châu Âu lần này chín phim để chiếu song song với các buổi chiếu có phim châu Âu: Chữ trên sóng (đạo diễn Vương Khánh Luông), Chuyện ở một vùng non cao (Lê Tuấn Anh), Chuyện dài ở bệnh viện (Trịnh Quang Tùng), Người thắp lửa (Nguyễn Như Vũ), Andres Menras - một người Việt (Đào Thanh Tùng), Bản đồ tư duy - hành trình kết nối (Nguyễn Thước), Ký ức một thời (Nguyễn Văn Hướng), Người thả chiều vào tranh (Hoàng Dũng) và Cha mẹ xin lỗi con (Phan Huyền Thư).

Nếu như ở LHP tài liệu châu Âu năm ngoái có đêm phim trẻ thì năm nay LHP dành một ngày cho phim Đông Nam Á. Đó là sáu phim đến từ các nước Indonesia, Philippines, Myanmar, Malaysia, Campuchia và VN như: Hai cô gái ngược chiều mưa, Quyền của người chết, Ngọn đồi còn sống... Khác với việc lựa chọn phim theo chủ đề ở những lần LHP trước, năm nay liên hoan chú trọng vào các phim tài liệu mới sản xuất gần đây để tăng tính thời sự.

Thứ Ba, 4 tháng 6, 2013

Chuyên đề KT Điện ảnh và VTTH: PHIM 3D


Phim nổi đã xuất hiện từ những năm 50 của thế kỷ trước.Ở các nước điện ảnh tiên tiến đều có rạp chiếu phim nổi.Trước năm 2000,rạp chiếu phim Ngọc Khánh của Viện Tư liệu phim Việt nam từng được cải tạo để chiếu phim nổi.
Phim nổi,nay gọi là phim 3D-ba chiều tạo ra những ấn tượng mạnh về hiệu quả không gian của hình ảnh.Những hiệu quả này gây ra những cú sốc thị giác cho người xem.Bộ phim Avantar mới đây của James Cameron là một thí dụ điển hình,có thể mở ra một thời đại mới của điện -ảnh-ba-chiều. 

Để xem phim nổi,người xem vào rạp được phát kính đeo mắt.

Khi xem,nếu bỏ kính ra thi chỉ thấy trên màn ảnh hai hình chập vào nhau.Để quay phim nổi,trước đây phải sử dụng hai máy quay để cùng quay một khuôn hình nên rất phức tạp.Bước tiến sau đó là một máy quay sử dụng hai ống kính.Công nghệ mới nhất của máy quay 3D là một máy quay với một ống kính,bên trong được thiết kế hệ thống hai gương phản chiếu và hai bộ cảm biến hình ảnh. 
Trong khoảng thời gian gần đây, nhất là kể từ sau sự xuất hiện của bộ phim được coi là “siêu phẩm của mọi thời đại”, Avatar, trào lưu phim 3-D đã phát triển một cách rầm rộ hơn bao giờ hết. Đi đến đâu cũng thấy người ta nói về nào là phim 3D, nào là về công nghê 3-D, nào là “giả” 3-D... Vậy thực chất phim 3-D là gì? Nó đã được làm ra như thế nào? Nó khác gì với phim 2-D truyền thống? Phim “giả” 3-D khác với phim 3-D “xịn” ở điểm nào? Hãy cùng tìm hiểu kĩ hơn về trào lưu này nhé.

Khái niệm về phim 3-D[/B]
Như nhiều người đã biết, 3-D thực ra là tên viết tắt của từ 3-Dimension (3 chiều). Kỹ thuật 3-D mà người ta vẫn sử dụng một cách phổ biến hiện nay thường đi liền với khái niệm “đồ họa 3D” - tức là những hình ảnh được dựng nên một cách sống động như thật với sự trợ giúp của các phần mềm đồ họa vi tính. Kỹ thuật này lần đầu tiên được biết đến trên màn ảnh vào năm 1995 với bộ phim hoạt hình nổi tiếng Toy Story (Thế giới đồ chơi) của hãng Walt Disney. Bộ phim này đã mở ra một thời kì mới cho thể loại phim hoạt hình không chỉ với những hình ảnh đẹp hơn, sinh động hơn, “ăn đứt” khi so sánh với các bộ phim hoạt hình 2D truyền thống, mà còn dần làm xoá nhoà đi khoảng cách giữa những hình ảnh “thật” và “giả” trên phim. Có thể kể đến một số bộ phim nổi bật cho thể loại 3D này như Shrek, Finding Nemo, The Incredibles, Happy Feet, Surf's Up… hay gần đây nhất là Wall-E và Up.

Tuy nhiên, dường như chưa cảm thấy thoả mãn với những gì đã có, các nhà làm phim vẫn quyết tâm mang đến cảm giác thật hơn cho người xem, muốn khán giả có thể tương tác được với bộ phim, tạo cảm giác giống như là được sống trong phim vậy. Vì lẽ đó mà công nghê Real 3-D – không gian ba chiều “thật” đã ra đời. Khác với công nghê phim 3D trước kia, vốn chỉ là những phim hoạt hình có các hình khối được dựng trong không gian ba chiều, nhưng nó vẫn bị giới hạn bởi không gian phẳng (2D) của màn hình, thì công nghệ Real 3-D làm cho người xem có cảm giác như những hình khối đó hoàn toàn thoát ra khỏi màn hình. Điều này khiến cho hình ảnh trên phim trở nên sâu và thật hơn rất nhiều.

Ảnh bên:Phim 3-D House of Wax ra đời từ năm 1953.

Bộ phim được coi là làm theo công nghệ 3-D đầu tiên đã ra đời vào năm 1953. Đó là bộ phim House of Wax của đạo diễn người Mỹ gốc Hungari, André de Toth. Nhưng chỉ đến cho tới khi bộ phim hoạt hình Chicken Little (2005) của hãng Walt Disney đạt được những thành công rực rỡ (thu về gần 100 triệu USD chỉ trong tháng công chiếu đầu tiên) thì công nghệ Real 3-D mới được các nhà làm phim chú ý đến. Nhận thấy được tiềm năng cũng như lợi nhuận khổng lồ mà những bộ phim 3-D này mang lại, các nhà làm phim Hollywood đã quyết định đầu tư lớn hơn vào công nghệ 3-D. Và quả thật, những thành công sau đó đã cho thấy những sự mạo hiểm là hoàn toàn sáng suốt: Ice Age 2 có doanh thu gần 200 triệu USD chỉ riêng tại Mỹ, Shark Tale thì thu về 363 triệu USD, Madagascar đạt 525 triệu USD ở thị trường Mỹ... Tuy nhiên đó vẫn chỉ là những bộ phim hoạt hình 3-D. Thế còn những bộ phim 3-D do người thật đóng thì sao???

Chính vì nhận thức được điều này mà đạo diễn lừng danh James Cameron đã quyết định cho thực hiện dự án Avatar vốn đã ấp ủ gần 11 năm trời của mình. Khác với những bộ phim hoạt hình 3-D trước đó chỉ dựng hoàn toàn bằng máy tính, James Cameron đã sử dụng một loại máy quay phim kĩ thuật số 3-D tiên tiến có hai ống kính song song, có thể định vị được những tiêu điểm khác nhau, thích hợp với từng địa hình quay và những hình ảnh này được sẽ được hiện ngay trực tiếp trên máy tính để có thể chỉnh sửa một cách tùy ý.

Có thể nói chính nhờ phương pháp này mà bộ phim Avatar đã trở thành một trong những người đi tiên phong mở ra “một trang sử mới cho lĩnh vực điện ảnh”.

Nguyên lí hoạt động của 3-D?
Các bộ phim được làm theo công nghệ 3-D nói chung đều dựa theo nguyên lí sự tạo ảnh 3 chiều từ hai mắt, sự chìm hay nổi của một vật phụ thuộc vào cách nhìn người quan sát. Chẳng hạn khi nhìn hai hình ảnh của một vật sát cạnh nhau, nếu như mắt trái nhìn vào ảnh bên phải còn mắt phải nhìn vào ảnh bên trái, thì ta sẽ cảm tưởng như vật đó đang nổi ra khỏi khung hình. Và ngược lại thì vật đó sẽ “lõm” xuống.



Lợi dụng điều này, các nhà làm phim 3-D sẽ quay thành hai phim, từ hai góc nhìn khác nhau tương ứng với hoạt động của hai con mắt. Những hình ảnh này khi qua não bộ, chúng sẽ chập lại tạo thành những hình ảnh không gian ba chiều. Và vì kĩ thuật 3-D này chủ yếu là dựa vào sự tổng hợp ảnh từ 2 mắt tạo nên nên những người có tật về mắt sẽ khó có thể xem được những bộ phim 3-D.

Kỹ thuật quay phim 3-D

Vậy một bộ phim 3-D sẽ được quay như thế nào? Đầu tiên, như đã biết, người ta sẽ sử dụng một camera khổng lồ trang bị hai ống kính lệch pha (một dành cho mắt trái và một cho mắt phải) để ghi hình cùng lúc từ hai góc nhìn, trên hai cuốn phim khác nhau.

Tại phòng chiếu, người ta sử dụng máy chiếu phim có hai ống kính, qua đó chuyển tải hai băng hình khác nhau. Một thiết bị đặc biệt đưa lên màn ảnh quang cảnh dành cho mắt trái và mắt phải cùng lúc để tạo nên ảnh 3 chiều. Tuy nhiên, khán giả sẽ không thể xem được những hình ảnh này ngay vì chúng sẽ xuất hiện rất nhòe trên màn ảnh, mà bắt buộc phải mang một cặp kính làm bằng chất liệu đặc biệt (thường là bằng thủy tinh lỏng). Sau đó, qua một tín hiệu hồng ngoại đồng bộ với máy chiếu phim chiếu từ xa sẽ làm một bên mắt kính bị mờ và bên kia trong suốt, khi đó người xem mới cảm nhận được những hình ảnh 3 chiều trên màn ảnh.


Tuy nhiên, trong Avatar, đạo diễn James Cameron còn đưa ra ý tưởng khác khi dùng ba màn ảnh rộng, tạo thành một đường cong khổng lồ bao trùm cả tầm nhìn. Mỗi màn ảnh đó sẽ được chiếu bằng loại phim 65mm, nghĩa là gấp đôi loại phim nhựa 35mm vẫn thường dùng, để có được ảnh to, rõ và sáng hơn. Ngoài ra sẽ có tổng cộng sáu máy chiếu phim tạo ra sáu góc nhìn khác nhau, tay vì 2 máy chiếu như bình thường để tạo ảo giác hoàn hảo và phim cũng được chiếu với tốc độ nhanh hơn 30 ảnh/giây thay vì 24 ảnh/giây làm cho chuyển động của các nhân vật trong phim cũng trở nên nhuần nhuyễn hơn.

Do có sự phức tạp, đòi hỏi đến các kĩ thuật hiện đại đến như vậy nên việc làm nên các bộ phim 3-D quả thật rất “nặng đô-la”. Chính vì thế nên các nhà làm phim đã nghĩ ra được một phương pháp khác có thể tiết kiệt được một khoản chi phí lớn, đó là bằng cách chuyển đổi những bộ phim dạng 2-D (phẳng) sang 3-D (nổi), hay người ta vẫn thường gọi đùa là phim "giả 3-D". Có thể kể tên đến hai bộ phim dạng 2-D chuyển đổi sang 3D gần đây nhất là Alice in Wonderland và Clash of the Titans.


Để chuyển một bộ phim 2-D thành 3-D trước tiên người ta phải xác định độ sâu của ảnh và đối tượng mình định làm, xem cái nào sẽ đặt trước, cái nào đặt sau, chỗ nào cần nổi lên và chỗ nào sẽ phải chìm xuống. Sau đó người ta sẽ cắt ảnh và kéo dãn bóng về bên phải cảnh nền nhằm để tạo ra hình ảnh dành cho mắt trái, rồi tương tự lại sao chép hình ảnh đó nhưng kéo lệch về bên trái để tạo ra hình ảnh cho mắt phải. Khoảng giữa hai hình ảnh này, người ta sẽ chèn vào đó các hình ảnh tổng hợp dạng hình khối và phải làm như thế liên tục 24 lần/giây mới tạo được hình ảnh nổi.


Tuy nhiên,nếu muốn chuyển đổi một bộ phim “phẳng” sang “nổi” cũng phải cần đến hàng trăm chuyên gia vi tính và cũng tiêu tốn một con số chi phí không nhỏ, dù tất nhiên là vẫn thấp hơn nhiều so với làm phim 3-D thật. Có điều, tất nhiên là do “tiền nào của nấy” nên phim "giả 3-D" khó có thể so bì về độ thật và có những hình ảnh nổi rõ như 3-D "xịn" được-Xem hai ảnh minh họa bên.

Hiện nay trên thế giới, có rất nhiều loại công nghê Real 3-D như Anaglyph, Real D, Dolby, Prisma… nhưng phổ biến nhất và thường dùng trong các rạp chiếu phim nhất vẫn là hai công nghê Dolby và Real D.


Công nghê Real D dựa theo nguyên lý phân cực để tạo hiệu ứng nổi 3D, bao gồm hai máy chiếu giống hệt nhau đươc đồng bộ hóa, phân cực hóa, và cùng chiếu lên một màn ảnh (phủ một chất liệu đặc biệt chống khử cực, thường là một lớp bạc) nhằm làm giảm độ sáng cho phim.

Trong khi đó, ưu thế của công nghệ Dolby so với Real D chính là Dolby dễ lắp đặt, hoàn toàn có thể chiếu được ngay trên màn hình trắng thông thường và kính đeo có thể tái sử dụng nhiều lần (trong khi kính dùng cho công nghệ Real-D chỉ có thể sử dung 1 lần). Ngoài ra có thể kể đến công nghệ Imax 3D dành chiếu riêng cho những rạp Imax có kích thước hình vòm khổng lồ ngang bằng một tòa nhà.


LẠI ĐỨC KHÁNH

Chuyên đề KT Điện ảnh và VTTH:MÁY QUAY PHIM NHỰA 35mm ARRIFLEX



Sự phát triển của Điện ảnh kỹ thuật số làm thay đổi rất nhiều về cách nhìn nhận, đánh giá,cách làm việc của nhiều người trong Điện ảnh.Cụ thể là việc ra đời nhiều loại máy quay kỹ thuật số full HD có thể đạt được độ phân giải lên tới 4K
Nhưng dù đạt được chuẩn 4K hay hơn chăng nữa,thì nó mới chỉ là tiêu chí đánh giá độ phân giải.Còn độ tương phản hay là sự nhận biết các chi tiết trong phần sáng và quá sáng của máy quay HD không thể bằng phim nhựa được. 
Hình vẽ trên sẽ cho ta thấy:

-Trục hoành biểu thị cường độ sáng

-Trục tung là mức tín hiệu

Với cùng 1 cảnh quay,cùng điều kiện lộ sáng,cùng góc máy..Máy quay phim nhựa,tương ứng với đường nét đậm sẽ có mức tín hiệu ở phần sáng tốt hơn so với máy quay HD ứng với nét đứt.

Với việc nắm bắt các chi tiết trong phần sáng tốt hơn hẳn máy quay HD (Độ tương phản cao hơn) thì phim nhựa vẫn là lựa chọn hoàn hảo nhất về chất lượng,vì thế máy HD vẫn không thể thay thế phim nhựa về mặt chất lượng kỹ thuật.Người ta sẽ sử dụng nó khi có sự cân nhắc về giá cả…

Trong khuôn khổ bài chuyên đề này chúng tôi không có tham vọng trình bày nhiều,chỉ muốn giới thiệu đôi chút về máy quay phim nhựa.Cụ thể là dòng máy quay ARRI flex 35mm(máy quay phim nhựa 35mm).Và tạm phân ra làm 2 loại : 

+ Máy quay không dùng để thu thanh đồng bộ

+ Máy quay dùng để thu thanh đồng bộ

Những loại máy quay phim nhựa này hiện vẫn đang được các hãng phim nhà nước và tư nhân sử dụng.

CẤU TẠO VÀ NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG

Về cấu tạo của 1 máy quay phim nhựa ta có thể tạm chia thành 4 phần cơ bản như sau:
Hệ thống ống kính:

+ Những ống kính đơn đắt tiền là sự lựa chọn cần thiết khi sử dụng máy quay Arri,thỉnh thoảng ta vẫn phải dùng ống kính zoom trong trường hợp đặc biệt,mặc dù chất lượng vẫn không bằng được ống kính đơn.

Ống kính đơn có tiêu cự từ 18,25,35,50 đến 85,135.Cá biệt có những ống kính góc rộng có tiêu cự 14 hoặc là 12
Trong trường hợp sử dụng ống kính zoom sẽ phải đi kèm theo 1 bộ gá đỡ ống kính,vì thế máy quay trông khá là cồng kềnh. 
Hộp đựng phim hay gọi là cassett phim:

Trong cassett phim bao giờ cũng có 2 phần:cuộn phim và nhả phim.Phần negative sống được lắp vào bên nhả phim đi qua cửa hình trong thân máy để lộ sáng , thu nhận hình ảnh sau đó chúng được cuộn lại trong phần cuộn phim của cassett. 

Những cassett của các đời máy cao về sau này càng được hoàn thiện hơn.Chúng đẹp hơn,hệ thống cơ học làm chúng chạy êm hơn,hạn chế xước negative hoặc hóc phim…

Thân máy:

Các máy đời cao hơn có thể có sự thay đổi ít,nhiều trong cấu tạo hoạt động của thân máy,nhưng về cơ bản thân máy sẽ đảm nhận những việc sau:

+ Mạch điện tử kết hợp với hệ thống cơ khí cực kỳ chính xác sẽ giúp kéo phim từ cassett vào thân máy để lộ sáng qua cửa hình với tốc độ 24hình/1giây(khoảng 0,5m phim negative) {tốc độ thông thường}

+Hệ thống gif và côngtơ gif trong thân máy làm nhiệm vụ móc và giữ phim tại cửa hình để lộ sáng lấy hình ảnh.

+Hệ thống cửa hình(film gate),gương mờ có thể thay đổi được để quyết định khuôn hình của bộ phim(ví dụ: cửa hình1.66;1.85…)
Sơ đồ cụm cửa hình và nơi negative được lộ sáng

Film Gate: Cửa hình

Light passes through: ánh sáng,hình ảnh nhận được sau ống kính sẽ được in lên phim negative

Film: phim negative có hướng chạy theo chiều thuận từ trên xuống dưới

Film Back: Hệ thống chặn, ép chặt phim lên cửa hình tránh hiện tượng run,giật..
Xin lưu ý phim negative chạy qua cửa hình với tốc độ rất cao nên cửa hình phải rất nhẵn sẽ không bị xước phim.Do đó vật liệu đặc biệt và công nghệ cơ khí chính xác cao mới sản xuất được cửa hình,vì thế giá thành của chúng là rất đắt.

+Hệ thống Shutter hay còn gọi là cửa trập độ mở là hệ thống được điều khiển bằng motor quay,dùng để lộ sáng phim.

Khi negative được hệ thống gif và côngtơ gif giữ lại trên cửa hình thì hệ thống sector này phải được mở ra để phim được lộ sáng,sau đó chúng đóng lại thì phim negative được cuốn đi nhường chỗ cho đoạn negative mới chưa được lộ sáng đến và hệ thống cửa trập độ mở lại được mở ra…

Hệ thống Shutter có thể thay đổi được độ mở nhờ đó mà cho ánh sáng qua nhiều hay ít.

Nó có thể mở ra 180 độ hay khép lại 15 độ hoặc nhỏ hơn.

Khi mở ra 180 độ thời gian lộ sáng sẽ nhiều hơn ở góc 15 độ,thời gian lộ sáng sẽ ít hơn.

Khi đã lộ sáng xong 1 hình thì hệ thống Shutter đóng lại, đồng thời trên đó là hệ thống gương giúp phản chiếu hình ảnh vào 1 hệ thống khác trên máy đó là hệ thống viewfinder,giúp người quay phim quan sát được hình ảnh khi quay.

Nhờ vào kính mờ đã vạch sẵn khuôn hình(ví dụ:1,85)mà hình ảnh phản chiếu từ gương Shutter qua kính mờ lên cụm viewfinder giúp người quay phim dễ dàng căn được bố cục.
+Ngoài ra trên hệ thống thân máy đời mới còn thiết kế 1 số mạch điện tử hỗ trợ người sử dụng khi quay phim.

Ví dụ: Hệ thống điện tử trên máy Arri 435 giúp người quay phim có thể quay được tốc độ lên tới hơn 120 hình/1s hoặc giảm xuống 1hình/1s.

Và khi sử dụng thay đổi tốc độ hệ thống sẽ tự động thay đổi sector,giúp quay phim không cần phải đóng,mở khẩu độ.

Nhờ vào mạch điện tử hiện đại mà quay phim có thể lập trình sau thời gian nào đó có thể tự động thay đổi tốc độ…

Hệ thống Remote: 

Hệ thống này chỉ sử dụng cho các máy quay cao cấp từ Arri 435, Arri 535,…

+RCU: remote control unit: Khi gắn vào sẽ hỗ trợ thay đổi tốc độ hoặc lập trình thay đổi tốc độ,thay đổi sector,hoặc quay thuận,nghịch….
+RFF: remote follow focus: Hỗ trợ điều chỉnh nét từ xa

Nhìn chung cấu tạo,nguyên lý hoạt động của 1 máy quay Arri là như trên,tuỳ theo các dòng máy mà có một số sự thay đổi. Đối với những dòng máy quay Arri dùng để thu đồng bộ do yêu cầu chạy êm,không phát ra tiếng ồn nên có sự cải tiến lớn về cassett và vỏ máy quay cách âm giúp giảm thiểu tiếng ồn phát sinh,do đó mà những máy quay dùng thu thanh đồng bộ thường rất nặng nề..Và hầu như không có sự thay đổi lớn nào trong phần điều khiển điện tử của máy Arri dùng cho thu đồng bộ.

MÁY QUAY ARRI KHÔNG DÙNG THU THANH ĐỒNG BỘ

Về cơ bản các máy quay Arri không dùng cho việc thu đồng bộ sẽ có kêt cấu đơn giản hơn và đặc biệt là trọng lượng được giảm nhẹ hẳn.

Vì thế chúng hay được dùng để quay ngoại cảnh vì bản chất khi vận hành,chúng phát ra tiếng ồn rất lớn.Hay những máy quay này thường được gắn lên ô tô,cáp treo…vì trọng lượng của chúng nhẹ hơn những máy quay dùng thu thanh đồng bộ.

Việc không cần phải cách âm cho casset hay vỏ máy nên chi phí sản xuất cho những chiếc camera này giảm đi rất nhiều,và vì đơn giản được thân máy cũng như casset nên chúng có đường nét kiểu dáng đẹp và gọn gàng hơn.Dưới đây là hình ảnh 1 số casset máy Arri không dùng để thu đồng bộ.

Ta thấy được chúng có kết cấu mỏng và gọn nhẹ vì không cần làm cách âm.

Phần tiếp xúc giữa cassett và thân máy quay đơn giản chỉ là vài chiếc bánh răng,nên khi chạy chúng phát ra tiếng ồn rất lớn, đặc biệt khi chạy với tốc độ cao (Trên 60hình/1s) ngoài độ ồn lớn,khả năng rung ,giật nên rất dễ bị đứt,hóc phim. Đây cũng là nhược điểm của những máy không dùng thu đồng bộ này.
Những năm 80 trở về trước Việt Nam sử dụng 1 loại máy quay vô cùng gọn nhẹ đó là máy quay Arri 235.Ngoài những nhược điểm về độ ồn,xước phim,acc quy hay không hỗ trợ 1 số phụ kiện kèm theo..thì ưu điểm của loại máy này nhìn vào cũng thấy đó là khả năng cơ động vác vai rất tốt.

Khả năng cơ động cao nên nó hay được dùng để quay tài liệu,hoặc trong phim truyện nó được sử dụng như 1 máy phụ ngoài máy quay chính.( Đặc biệt hiệu quả khi sử dụng làm phim chiến tranh..)

Ra đời sau đó là thế hệ máy Arri 335.Với thiết kế được cải tiến về kiểu dáng,1 số chức năng được cải tiến như:quay thuận,nghịch,khả năng hỗ trợ quay tốc độ cao..,đặc biệt cải tiến phù hợp với những dòng ống kính chất lượng cao cấp hơn,nên chúng tỏ ra rất phù hợp khi làm phim truyện,và nó vẫn được dùng cho đến tận bây giờ.
Sau thế hệ máy quay Arri 3 xuất hiện 1 dòng máy được cải tiến trông bắt mắt hơn.Đó là Arri 435 Đặc biệt cải tiến:

-Hệ thống cửa hình,kính mờ,hệ thống gif và công tơ gif được nằm trong 1 cụm

-Hệ thống casset

-Hệ thống shutter được hỗ trợ điện tử ..

-Hệ thống điều khiển điện tử

-Hệ thống Viewfinder với hỗ trợ điện tử chuyển đổi từ quang học sang điện tử để tạo 1 đường hình ra (Video out)
Với sự hỗ trợ điện tử mạnh như vậy Arri 435 thực sự là cuộc cách tân trong dòng máy Arri từ trước đến nay tuy rằng sau này hãng Arri ra thêm những đời máy như: Arri 535,hoặc đời cao hơn thì hệ thống điều khiển điện tử hoàn toàn không khác gì mấy so với Arri 435

MÁY QUAY DÙNG CHO THU ĐỒNG BỘ

Đối với máy quay dùng cho thu thanh đồng bộ,nhà sản xuất có sự cải tiến bên trong thân máy và casset máy quay.

Cụ thể thì bên trong thân máy,ngoài lớp vỏ hợp kim của máy quay,nhà sản xuất còn lắp thêm vật liệu để cách âm nên vỏ máy trở nên dày hơn và thân máy trông nặng nề hơn

Hệ thống casset cũng được cải tiến cách âm nên vỏ của chúng trông dày hơn.Ngoài ra đa phần casset được thiết kế dạng hình tròn để đảm bảo sự chuyển động của negative nhẹ nhàng hơn.Những bánh răng,puly trong loại casset này cũng khó nhìn thấy được vì chúng được “bọc” kín để khi chuyển động hạn chế được rất nhiều tiếng ồn phát sinh
Hệ thống ráp nối cassett vào thân máy quay cũng được thiết kế tránh tiếng ồn nên cách ráp nối giữa 2 hệ máy đồng bộ và không đồng bộ cũng có sự khác nhau.

Do có sự khác nhau về thiết kế như vậy nên việc lắp phim vào cassett tròn của máy quay thu đồng bộ không quan tâm đến độ dài của búp phim,mà ta chỉnh nó khi đã lắp phim vào cửa hình.

Việc phân biệt giữa 2 loại máy quay đồng bộ và không đồng bộ cũng có thể nhận biết chúng thông qua ký hiệu.

Đối với máy quay dùng để thu đồng bộ sẽ có thêm chữ BL(Blim) hoặc Evolution.

Chẳng hạn thiết kế ra đời cùng thời gian với máy Arri 3 là máy quay Arri 3 BL. Đó là máy quay Arri 3 dùng để thu đồng bộ.
Nặng hơn Arri 335, Arri 335BL chạy êm hơn,nhưng chưa được hỗ trợ nhiều trong hệ thống điện tử nên 1 số chức năng vẫn phải điều khiển bằng tay như việc đóng mở shutter…

Tiếp sau đời Arri3BL là dòng máy Arri 435BL đã được hỗ trợ rất nhiều trong phần điện tử.Nhờ đó mà việc điều khiển hay vận hành trỏ nên dễ dàng hơn hoặc chúng có thể làm 1 số kỹ xảo đơn giản…


Đối với đời máy Arri5 được phát triển ngay sau đó toàn bộ hệ thống Video exit được thiết kế ở bên trong máy,nên chất lượng hình ảnh video ra tốt hơn.

Chỉ có thể dùng 2 từ hoàn hảo đối với máy Arri 5,vì chúng có thiết kế bên ngoài cực kỳ bắt mắt,tuy máy rất nặng nhưng bên trong được sở hữu 1 hệ thống điều khiển điện tử mạnh nhất của Arri(Đối với dòng máy quay phim nhựa).

Điểm nổi trội với những dòng máy khác là:mỗi khi đóng nắp máy để kiểm tra xước phim xong,hệ thống camera sẽ tự động chạy qua 1 đoạn phim đã bị lộ sáng…

Arri 535 không có chữ BL hay evolution được gắn vào sau ký hiệu máy,mà chỉ có Arri 535A hoặc Arri 535B mà thôi.Tuy nhiên cả 2 dòng máy này đều có thể sử dụng để thu thanh đồng bộ.
Với giá thành rất cao nên ở Việt Nam chưa có một tư nhân hay hãng phim nào đầu tư vào Arri 535 cả.Tuy nhiên nếu không phải quan tâm đến kinh tế thì Arri 535 là sự lựa chọn số 1 đối với các nhà quay phim truyện nhựa trên thế giới.

PHẠM THANH TÙNG

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | GreenGeeks Review